Một cán bộ Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Tây Ninh ngày 13.4 xác nhận, Tổng cục THADS vừa công bố các sai phạm của cá nhân ông Nguyễn Văn Hóa, Cục trưởng Cục THADS Tây Ninh. Đoàn kiểm tra của Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp đã làm việc với Cục THADS Tây Ninh để Trang Vang Trang Ngoc - Hong Van (tho Han Mac Tu).mp3. Trang Vang Trang Ngoc - Hong Van.mp3. Tuoi 13 (Nguyen Sa) - Hong Van.mp3. Tuong Tu (Nguyen Binh) - Hong Van.mp3. Gửi email bài đăng này BlogThis! Chia sẻ lên Twitter Chia sẻ lên Facebook Chia sẻ lên Pinterest. Labels: 13. Văn học Nếu bạn đã kích hoạt Find My iPhone, bạn có thể xóa bằng cách: Settings => iCloud => Di chuyển sang nút OFF . Bước 2: Đăng xuất tất cả mọi tài khoản : Vào Settings ->> iTunes và App Store và bấm vào các Apple ID. Sau đó, hãy nhấp vào Sign Out (đăng xuất). Tiếp theo, hãy vào Settings Answer the Question was founded in 2021 by three friends who shared a common interest in cars and car reviews. Over the years, the site has grown to become one of the most comprehensive and trusted sources of car information online. Di tich nha tho han mac tu diem du lich noi tieng cua binh dinh 1. Đề tài khóa luận: Di tích nhà thơ Hàn Mặc Tử, điểm du lịch nổi tiếng của Bình Định GVHD: ThS. Hồ Văn Tường SVTH: Nguyễn Ngọc Quí BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG TP.HỒ CHÍ MINH KHOA DU LỊCH Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Nguồn Gốc Tập Thơ Điên. Nếu Ai Yêu Thích Nhà Thơ Hàn Mạc Tử Chì Chắc Hẳn Đã Từng Nghe Qua Tập Thơ Có Tên Là " Đau Thương", hay còn gọi là " Thơ Điên" nhiều người biết đến. Nói đến Hàn Mặc Tử 1912 - 1 Domain Liên kết Bài viết liên quan Tho han mac tu Hàn Mặc Tử - Wikipedia Francis Nguyễn Trọng Trí, penname Hàn Mặc Tử September 22, 1912 - November 11, 1940 was a Vietnamese was the most celebrated Vietnamese Catholic literary figure during the colonial era. He w Xem thêm Chi Tiết vietnam Trả lời 14 năm trước “Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt, Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…” Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? “Trăng sõng soài trêncành liễu - Đợi gió đông về để lả lơi…” “Bẽn lẽn” – Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một trời trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đờ, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mói 1932-1941. Với 28 tuổi đời 1912-1940, ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, có khôgn ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ “Mùa xuân chín”, về Huế đẹp và thơ“Đây thôn Vĩ Giạ” như Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng say đắm, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Giạ. Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỷ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặtchwx điền?” Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Giạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Giạ “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mượt quá” một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó 1938 Xuân Diệu đã từng viết “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” “Thơ duyên. Hai chữ “vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trcs và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nơ “Thầm thì với ai ngôì dưới trúc Nghe ra ý nhị và thơ ngây” “Mùa xuân chín” Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. xanh như ngọc… mặt chữ điền Cảnh và người nơi Vĩ Giạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu. Vĩ Giạ - một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Giạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Giạ đẹp nênthơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Giạ vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng tha thiết mến thương. Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa hoa bắp. Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng, man mác. Hoa bắp lay nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ “Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Giạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo “Thuyền ai đậu bến sông trăng đo Có chở trăng về kịp tối nay?” Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo “Đây thôn Vĩ Giạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. Khổ thơ thứ ba nói về cô gái xứ Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương “Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son”…Vĩ Giạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sông khói làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không ra hình dáng em nhân ảnh. Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này? “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà”. “Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời phải sống trong cô đơn bệnh tật. Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh “vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi với trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ đi cùng sương khói? Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. “Đây thôn Vĩ Giạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và cái màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Giạ thôn một thời xa vắng “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?” Toquoc- Việc nghiên cứu tư duy sáng tạo nghệ thuật đem đến cho chúng ta nhận thức về những con đường sinh thành, phát triển của hình ảnh, hình tượng và mạch xúc cảm trong tác phẩm nghệ thuật. Đối với tác phẩm thơ, tính kiệm lời mà đa nghĩa đã chi phối đến sự lựa chọn các thủ pháp, cách thức biểu hiện của nhà thơ. Ẩn dụ, hoán dụ, điển cố, so sánh... đã trở thành thủ pháp được yêu thích của các tác giả thuộc thể loại này. Trong thơ Hàn Mặc Tử, bên cạnh việc sử dụng rất thành công các biện pháp tu từ như đã tìm hiểu, liên tưởng của thi nhân còn trượt rất xa về quá khứ để từ đó chiêm nghiệm, nhìn ngắm và xúc cảm về thực tại. Khi ấy, không gì đắc dụng hơn cho nhà thơ là việc sử dụng những điển cố. Điển cố theo cách hiểu của các tác giả Từ điển Tiếng Việt là "sự việc hay câu chữ trong sách đời trước được dẫn trong thơ văn"1. Hai học giả người Mỹ gốc Trung Hoa là Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân trong công trình Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường cho rằng khái niệm điển cố tương đương với khái niệm "dụng sự" trong tiếng Hán, nghĩa là dùng một sự việc đã qua để ám chỉ một sự việc trước mắt2. Với những phân tích, lý giải khá cặn kẽ trên đối tượng thơ cận thể, hai tác giả này đã chứng minh tính hữu dụng của điển cố trong việc tạo nên sự hàm súc, kiệm lời của tác phẩm thơ. Trần Đình Sử trong công trình Thi pháp Truyện Kiều khá thống nhất với hai học giả trên ở quan điểm về bản chất điển cố là "dụng sự" nhưng tác giả này nhấn mạnh "điển cố nhắc điển để nói tình trong việc"3. Tình trong việc ở đây thuộc thì hiện tại trong cảm nhận của nhà thơ. Quách Tấn trong Thư gửi các bạn ham làm thơ Đường luật Bức thư thứ mười bẩy diễn giải "Dụng điển là lấy sự tích nơi kinh sử đời xưa, mượn chữ mượn ý trong văn thơ cũ, trong cổ ngữ... đem vào tác phẩm để nói được kín đáo, được bóng bảy, được gọn gàng, nhất là gọn gàng những tình ý mà số chữ hữu hạn trong câu văn câu thơ không thể nói được đầy đủ"4. Như vậy, các quan điểm đều thống nhất ở chỗ điển cố là dùng sự việc hay câu chữ trong sách đời trước để soi ngắm, chiêm nghiệm hay biểu cảm về sự việc, tình huống của hiện tại, nó không phải là miêu tả sự việc của quá khứ mà là nối kết hiện tại với quá khứ bằng sợi dây "đồng đẳng" để biểu đạt hiện tại. Khi nghiên cứu Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Đoàn Ánh Loan đã chỉ ra liên tưởng là một tính chất của điển cố. Theo tác giả này, "Sự liên tưởng, so sánh trong quá trình tư duy của người đọc là chất "xúc tác" kết hợp nghĩa trực tiếp của điển cố với hiện thực văn cảnh tạo nên đặc trưng của điển cố"5. Điển cố trong thơ Hàn Mặc Tử không ít dù là một nhà thơ mới. Điển cố không chỉ xuất hiện trong những bài thơ luật Đường của tác giả mà dàn trải trong suốt hành trình thơ với tư cách như một thủ pháp. Thủ pháp này xuất hiện nhằm biểu đạt liên tưởng khi liên hệ những sự việc hiện tại với sự việc trong quá khứ, từ đó bộc lộ tình cảm, thái độ cũng như những tri nhận về hiện tại của thi nhân. Liên tưởng của Hàn Mặc Tử rất hay xuất hiện hình bóng các nhân vật của quá khứ được lưu truyền trong sách cũ, trong giai thoại. Bao bọc xung quanh những nhân vật, địa danh ấy là những sự việc mà tác giả có thể liên tưởng đến trong tư duy. Bến Tầm Dương, bến Hàn Giang, Sở Giang, Ô Giang, sông Tần, Thiên Thai... trầm tích quanh nó những vỉa tầng ý nghĩa có thể làm chất liệu cho liên tưởng thẩm mĩ. Khi Hàn Mặc Tử Cao hứng, thi nhân thấy mình mang dáng dấp của những văn nhân xưa tài hoa, lịch lãm Tôi làm Tô Đông Pha/ Đàn tương tư lạc điệu.../ Tôi bắt chước Hi Di/ Ngủ một trăm ngày dậy. Với phẩm chất ấy, thi nhân mơ tới giai nhân Tôi thấy nàng Tây Thi/ Giặt sa trên bàn thạch/ Tôi ưng ả thuyền quyên/ Ở trong pho tình sử Cao hứng. Là một cái tôi đa tình, lại khao khát những vẻ đẹp bất tử, Hàn Mặc Tử đi tìm trong chuyện xưa, sách cũ những bóng hình giai nhân không có tuổi như Tây Thi, Quý Phi, Điêu Thuyền, người lụa sông Tần, người lụa bến Tầm Dương... thực chất là mơ ước những vẻ đẹp của thực tại đừng hư hoại trong dòng chảy vô tình của thời gian. Các nhân vật ấy sống được là nhờ những việc có liên quan, khi nhắc người cũng có nghĩa là gọi về những việc xưa trong kho kinh nghiệm, hiểu biết của thi nhân. Và không thể khác được, thi sĩ có nghĩ đến những việc xưa liên quan đến nhân vật mới dùng nó để biểu đạt một xúc cảm, một nhận thức nào đấy của mình về thực tại. Từng nghiền ngẫm những chuẩn tắc của thơ cổ điển, Hàn Mặc Tử hiểu rõ cách xử lý điển cố để tạo hiệu quả cao nhất trong sáng tác của mình. Ở chỗ này liên tưởng phát huy khả năng lựa chọn điển cố và xử lý điển cố. Hàn Mặc Tử chuyển hoá những câu chuyện, sự việc, câu chữ của sách xưa trong tư duy và xúc cảm của riêng mình ta biết rằng tư duy và xúc cảm ấy đã không còn ngoan ngoãn trong cương vực của thi ca trung đại nữa. Thời kì làm thơ Đường luật Hàn Mặc Tử bộc lộ những tâm sự thời thế khá rõ rệt qua việc sử dụng điển cố Khắc khoải năm canh quyên nhớ nước Canh khuya cảm tác. Câu thơ gợi liên tưởng đến câu chuyện Thục Đế mất nước, linh hồn hoá thành chim Đỗ Quyên mải miết gọi tự ngàn xưa. Thế nhưng Hàn Mặc Tử không dùng nguyên điển mà chỉ nhắc tên loài chim nhớ nước. Liên tưởng vì thế mà càng trở nên đa tầng bởi hiệu ứng của hội ý và hồi cố trước một điển tích đã được đào luyện một cách tài tình. Cũng như vậy, ở cuối bài thơ Canh khuya cảm tác để biểu đạt trạng thái mơ hồ, hư thực của mình khi bàng hoàng "trỗi dậy", Hàn Mặc Tử liên tưởng đến câu chuyện Trang Chu đời xưa. "Trang Chu nằm mộng thấy mình hoá thành bướm, bay nhởn nhơ như con bướm. Đột nhiên tỉnh dậy, chợt thấy mình lại là Trang Chu. Không biết có phải là Trang Chu nằm mộng thấy mình hoá bướm hay là bướm nằm mộng thấy mình biến thành Trang Chu ?"6 Gối điệp mơ màng vùng trỗi dậy Vừa toan tính đó có ai hay Vượt qua tâm thức phi ngã của một nhà nho làm thơ để trở thành thi sĩ, đã có những biến chuyển lớn lao trong tư duy, liên tưởng của Hàn Mặc Tử, biểu hiện trong cách dùng điển cố. Liên tưởng tới khúc nhạc Phượng Cầu Hoàng, gắn với mối tình lưu truyền hậu thế của Tư Mã Tương Như và nàng Trác Văn Quân, cũng là cách để cái tôi đa tình với trái tim nhiều xúc cảm được thể hiện một cách tha thiết hơn, sâu sắc hơn Ta là khúc Phượng Cầu Hoàng năm trước/ Đem ân tình rải khắp cõi nhân duyên Duyên kỳ ngộ. Sử dụng điển cố trong sáng tác của mình, Hàn Mặc Tử tạo nên chuỗi những liên tưởng hướng xa về quá khứ với những người, những việc có cơ sở tồn tại bằng ý nghĩa tượng trưng của nó. Khi những liên tưởng như vậy xuất hiện, nó sẽ xác lập một hoàn cảnh tượng trưng trên cơ sở "đồng đẳng" với thực tại khiến cho hình ảnh, hình tượng, cảm xúc xuất hiện mà không mất nhiều ngôn ngữ để diễn đạt. Điều này ẩn dụ không thể làm được dù khả năng biểu hiện của ẩn dụ có cao đến đâu. Lí do là ở chỗ ẩn dụ chỉ có thể tạo nên hình ảnh, hình tượng, cảm xúc mà không thể xác lập hoàn cảnh như "dụng sự". Nhắc lại mối tình nhiều gian truân trong Tây sương ký với kết cục chàng Trương Quân Thuỵ kết duyên cùng Thôi Oanh Oanh cũng là khát vọng về một tình duyên không lỡ dở, li tan của thi nhân trong hiện tại có lẽ Hàn Mặc Tử liên tưởng đến vở Tạp kịch Tây Sương ký của Vương Thực Phủ đời Nguyên chứ không phải là Oanh Oanh truyện của Nguyên Chẩn đời Đường. Tuy nhiên, trong liên tưởng của Hàn Mặc Tử sẽ hiện về biết bao say đắm ngọt ngào, biết bao thề nguyền gắn bó của đôi uyên ương dưới mái tây kia, có nỗi đau chia biệt nghẹn ngào và niềm vui đoàn viên được kết xe cầm sắt. Có lẽ đó mới là xúc cảm ẩn dấu sâu nhất trong tâm hồn thi nhân Cho Quân Thuỵ lấy nàng Thôi thuyền quyên/ Xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước - Duyên kỳ ngộ. Nguyên tắc đồng đẳng giữa sự việc của hiện tại và sự việc của quá khứ cả về hai chiều tương đồng và tương phản làm cho liên tưởng của Hàn Mặc Tử được mở rộng hơn. Cầu mong những mối tình trọn vẹn nhưng cũng luôn khắc khoải nỗi li tan. Cả hai điều ấy đồng hành trong liên tưởng của thi nhân. Trần Đình Sử nhấn mạnh tới việc biểu đạt cái tình của nhà thơ trong sự việc hiện tại thông qua liên hệ với sự việc của quá khứ chính là nhấn mạnh điều này. Rõ ràng Hàn Mặc Tử không nhằm miêu tả việc xưa, cũng không chú trọng miêu tả sự việc của hiện tại, mà trên hết là thái độ, tình cảm, tâm trạng của thi nhân về thực tại đó. Bên cạnh niềm hân hoan kỳ ngộ là những ám ảnh về bi kịch ái tình tan vỡ, nỗi cô đơn sầu tủi. Một điểm cần phải nói ở đây khi tìm hiểu điển cố trong thơ Hàn Mặc Tử đó là có những điển cố có nguồn gốc từ văn học Việt Nam đời trước Điển cố có nguồn gốc chủ yếu từ kinh, sử, truyện, thơ, văn, phú... của Trung Hoa, nhưng khi sống trong môi trường văn học Việt Nam các điển cố này dần được Việt hoá. Điều này cũng khá dễ hiểu bởi ảnh hưởng của những tác giả sau đối với những tác phẩm kinh điển của dân tộc. Khi Hàn Mặc Tử mai mỉa hành động kén chồng của cô Bích Ngọc bằng liên tưởng Bảy chữ tám nghề thêm mệt não/ Năm lừa mười lọc tiếc cho công Hỏi thăm cô Bích Ngọc một chuỗi những sự việc có đầy đủ nhân vật, không gian, thời gian xuất hiện mà chẳng cần phải mất công mô tả. Bao nhiêu nỗi nhục nhã, ê chề, lừa lọc cứ lần lượt hiện ra trong điển cố "bảy chữ tám nghề" mà người xưa đã thâu tóm kia Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề - Truyện Kiều. Thái độ của thi nhân như thế là rất rõ đối với dạng tân thời giả hiệu trong một xã hội lai căng nửa vời. Ở một trường hợp khác, trong tâm trạng ngất ngây trước vẻ đẹp của người tình trinh trắng, xuân thì, thi nhân liên tưởng tới vẻ đẹp của giai nhân trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du Em kết tinh ở bao thanh sắc lạ/ Toà thiên nhiên đúc sẵn để mê say Duyên kỳ ngộ, Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên - Truyện Kiều. Dụng điển là một thủ pháp đắc ý của các tác gia thuộc loại hình văn học trung đại. Xuất phát là một nhà thơ cổ điển để lao nhanh trên hành trình hiện đại hoá, trở thành nhà thơ lãng mạn, tượng trưng, men chớm vào siêu thực, Hàn Mặc Tử nỗ lực vượt ra khỏi những định lệ của thi pháp cũ, nhưng không phải hoàn toàn đoạn tuyệt với điển cố. Tư duy và mỹ cảm của thi nhân vẫn gọi về những dấu ấn cổ xưa để nói hộ tâm tư, tình cảm, thái độ của mình một cách kín nhiệm. Càng về cuối chặng đường thơ của mình khi sử dụng điển cố, liên tưởng của Hàn Mặc Tử càng thoát xa phong vị trang nghiêm, cổ kính của điển cố để gắn cái tôi cá nhân của mình vào ngôn từ, hình ảnh, hình tượng. Điển cố lúc này chỉ còn được sử dụng dưới các hình thức mượn tên, mượn chữ nhưng đặt trong môi trường câu thơ đã thay đổi rất nhiều so với chặng đầu. Điển cố trong những câu thơ, bài thơ hết sức tự do về câu chữ của Thơ mới đã dần bị đánh bật khỏi vị trí hạt nhân của tứ, trở thành những định ngữ, bổ ngữ trong câu thơ có mệnh đề lõi cốt biểu hiện cá tính của một cái tôi hiện sinh riết róng. Aristote trong tác phẩm Nghệ thuật thơ ca đã nhận định "... nhà thơ phải là người có tính sáng tạo và phải vận dụng thích đáng những tư liệu lưu truyền"7. Điển cố chính là những tư liệu lưu truyền mà một nhà thơ tài năng là người biết cách sử dụng đúng chỗ, đúng liều lượng để phát huy tối đa khả năng biểu đạt. Đồng thời người tiếp nhận cũng cần có một nền tảng tri thức nhất định mới có thể đồng cảm với tác giả. Khảo lại những điển cố trong thơ Hàn Mặc Tử giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về sự kế thừa và chuyển hóa những sắc diện thẩm mỹ của thơ trữ tình Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa. Nguyễn Thanh Tâm - Tài liệu tham khảo 1. Hoàng Phê chủ biên2002, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, tr. 318. 2. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân 2000, Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, Trần Đình Sử, Lê Tẩm dịch, Nxb Văn Học, Hà Nội, tr. 288. 3. Trần Đình Sử 2007, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 290. 4. Quách Tấn 1998, Thi pháp thơ Đường, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 224. 5. Đoàn Ánh Loan 2003, Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 39. 6. Đinh Gia Khánh chủ biên, Nguyễn Thạch Giang, Kiều Thu Hoạch, Vương Lộc, Bùi Nguyên, Nguyễn Ngọc San, Đặng Đức Siêu, Chu Thiên, Hoàng Hữu Yên 2008, Điển cố văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 179. 7. Aristote 2007, Nghệ thuật thơ ca, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Báy dịch, Đoàn Tử Huyến hiệu đính, Nxb Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, tr 60 - 61. Vous êtes le Dr Mac Thien Hung ? Créez un compte gratuitement sur notre site web afin de compléter les informations qui figurent sur votre fiche. Ces informations aideront vos patients à en savoir plus sur vous les langues que vous parlez, les divers lieux où vous exercez, vos horaires de travail etc. Compléter mes informations Thơ Điên Hàn Mạc Tử ❤️️ Tuyển Tập Thơ Điên Trọn Bộ ✅Mang Đến Cho Ta Bao Cảm Xúc Đến Rợn Người. Đó Là Máu, Nước Mắt, Là Tiếng Khóc, Cơn Đau… Nguồn Gốc Tập Thơ ĐiênTuyển Tập Thơ Điên Trọn BộTập Thơ Điên Hàn Mạc TửThơ Điên Của Hàn Mạc TửBài Thơ Điên Nguồn Gốc Tập Thơ Điên Nếu Ai Yêu Thích Nhà Thơ Hàn Mạc Tử Chì Chắc Hẳn Đã Từng Nghe Qua Tập Thơ Có Tên Là ” Đau Thương”, hay còn gọi là ” Thơ Điên” nhiều người biết đến Nói đến Hàn Mặc Tử 1912 – 1940, là nói đến nhà thơ lạ nhất của phong trào Thơ Mới 1932 – 1945, người “cai trị Trường thơ Loạn của các nhà thơ Bình Định” 1. Nói đến thơ ông, người ta nhớ đến thơ Cổ điển trong Lệ Thanh thi tập, thơ Lãng mạn trong Gái quê…nhưng, hơn tất cả là nhớ đến Thơ Điên trong Đau thương. Cái tên có phần “giật gân” của Thơ Điên, ngay từ đầu đã có sức mê hoặc giới nghiên cứu. Người ta nghĩ ngay đến việc nhận diện bản chất của Điên và bản chất Thơ Điên. Không ít người đã yên chí với cách nghĩ đơn giản điên chỉ là một trạng thái bệnh lí đồng nghĩa với chứng loạn thần kinh, mà không thấy rằng còn có điên như một trạng thái sáng tạo. Đó là lúc cảm hứng đến như một cơn “sốc”, người làm thơ lâm vào một cơn sáng tạo như “lên đồng”. Ý thức tỉnh táo như mờ đi, lùi lại phía sau, nhường phần lớn quyền điều hành qui trình sáng tạo cho tiềm thức, vô thức. Trước hết, cần khẳng định Thơ Điên không phải là một phát minh mới về thể loại. Nó vẫn thuộc phạm trù Thơ Mới. Nhưng là một dạng thức Thơ Mới đặc biệt. 🌻 Ngoài Thơ Điên Hàn Mạc Tử 🌻 Đọc Thêm Thơ Xuân Diệu Hay Nhất Tham khảo Tuyển Tập Thơ Điên Trọn Bộ, những bài thơ hay trong tập thơ được chọn lọc sau đây ❣️ Nhắc đến Hàn Mặc Tử, chúng ta không thể quên nhắc đến tập Thơ Điên nổi tiếng được đông đảo dư luận chú ý đến. Đây là một tập thơ nổi bật cho phong cách thơ của ông. Đọc thơ, ta dễ dàng cảm nhận được một thế giới thơ đầy cảm xúc bí ẩn, thu hút người đọc mạnh mẽ. ❣️ Tập đau thương Thơ Điên của Hàn Mặc Tử gồm ba phần hương thơm, mật đắng và máu cuồng & hồn điên, 2 phần đầu gồm những tứ thơ nhẹ nhàng, lãng mạn, nhưng cho tới phần 3 thì đã chất đầy những nỗi đau và thấm đậm màu sắc tôn giáo, khó hiểu Phần 1 Hương thơmPhần 2 Mật đắngPhần 3 Máu cuồng Và Hồn điênĐà Lạt trăng mờ 1Tối tân hôn1Huyền ảoMùa xuân chín 18Thi sĩ ChàmMơ hoaSáng trăngSay nắngThời gianBắt chướcCao hứngChuỗi cườiĐây thôn Vĩ Dạ 26Ghen1Lưu luyến IITrăng vàng trăng ngọcNhững giọt lệ 1Cuối thuThao thứcHãy nhập hồn emKhói hương tanĐôi ta2Sầu vạn cổMuôn năm sầu thảmDấu tíchGửi anhTrường tương tưHồn là aiBiển hồn taSáng lángNgủ với trăngSay trăng3Rượt trăngTrăng tự tửChơi trên trăngMột miệng trăngRướm máuTrút linh hồnƯớc aoCô liêuNgười ngọc 2Cô gái đồng trinh4Ngoài vũ trụ 🌻 Ngoài Thơ Điên Hàn Mạc Tử 🌻 Tham khảo Thơ Xuân Diệu Về Tình Yêu Lãng Mạn Tập Thơ Điên Hàn Mạc Tử Cùng tìm hiểu Tập Thơ Điên Hàn Mạc Tử được mọi người yêu thích Đà Lạt Trăng Mờ Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu,Trời mơ trong cảnh thật huyền sao đắm đuối trong sương nhạt,Như đón từ xa một ý thơ. Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,Để nghe dưới đáy nước hồ nghe tơ liễu run trong gió,Và để xem trời giải nghĩa yêu. Hàng thông lấp loáng đứng trong im,Cành lá in như đã lặng thực làm sao phân biệt được?Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm. Cả trời say nhuộm một màu trăng,Và cả lòng tôi chẳng nói một tiếng gì nghe động chạm,Dẫu là tiếng vỡ của sao băng! Mùa Xuân Chín Trong làn nắng ửng khói mơ tan,Đôi mái nhà tranh lấm tấm soạt gió trêu tà áo biếc,Trên giàn thiên lý – Bóng xuân sang. Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trờiBao cô thôn nữ hát trên đồi;– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,Hổn hển như lời của nước mây,Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,Nghe ra ý vị và thơ ngây. Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng– “Chị ấy, năm nay còn gánh thócDọc bờ sông trắng nắng chang chang?” Đây Thôn Vĩ Dạ Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền. Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không ra…Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà? 🌻 Ngoài Thơ Điên Hàn Mạc Tử 🌻 Tìm hiểu về Xuân Diệu Huy Cận Hay Thơ Điên Của Hàn Mạc Tử Đừng bỏ lỡ tập Thơ Điên Của Hàn Mạc Tử mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc Trăng Vàng Trăng Ngọc Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!Ai mua trăng tôi bán trăng choKhông bán đoàn viên, ước hẹn hò…Bao giờ đậu trạng vinh quy đãAnh lại đây tôi thối chữ thơ. Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hồn giả đò chơi, anh tưởng rằngTôi nói thiệt, là anh dại quáTrăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang. Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơiTôi đang cầu nguyện cho trăng tôiTôi lần cho trăng một tràng chuỗiTrăng mới là Trăng của Rạng NgờiTrăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng! Ghen Ta ném mình đi theo gió trăngLòng ta tản khắp bốn phương trờiCửu trùng là chốn xa xôi lạChim én làm sao bay đến nơi? Chiếc tàu chở cả một đêm trăngMuôn ánh sao ngời chói thẳng băngMuôn sợi hương trầm bay bối rốiMuôn vàn thần thánh sống cao sang. Giây phút ôi chao! Nguồn cực tôi ghen hết thú vô biênAi cho châu báu cho thinh sắcMiệng lưỡi khô khan, hết cả thèm. 🌻 Ngoài Thơ Điên Hàn Mạc Tử 🌻 Xem thêm Thơ Về Mùa Xuân Của Xuân Diệu Hay Nhất Bài Thơ Điên Tập Thơ Điên của nhà thơ Hàn Mạc Tử nổi tiếng được nhiều người biết đến Những Giọt Lệ Hàn Mạc Tử Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?Bao giờ tôi hết được yêu vì,Bao giờ mặt nhật tan thành máuVà khối lòng tôi cứng tựa si? Họ đã xa rồi khôn níu lại,Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa…Người đi, một nửa hồn tôi mất,Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?Sao bông phượng nở trong màu huyết,Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu? Cuối Thu Hàn Mạc Tử Lụa trời ai dệt với ai căng,Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,Và ai gánh máu đi trên tuyết,Mảnh áo da cừu ngắm nở nang. Mây vẽ hằng hà sa số lệ,Là nguồn ly biệt giữa cô không tô điểm nên sương khói,Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn. Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ,Với buồn phơn phớt, vắng trơ gì mảnh khảnh run cầm cập,Điềm báo thu vàng gầy xác xơ. Thu héo nấc thành những tiếng vì sao lạ mọc phương mô?Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ? Thao Thức Hàn Mạc Tử Lạnh quá ánh trăng không sáng mấyCho nên muôn dặm ở ngoài kiaEm đang mong mỏi, em đang nhớBứt rứt lòng em muốn trở về. Như xa xôi quá biết làm sao?Lấy trí tương tư đo được nào?Em mới vùng vằng em thở dốcTình thương trong dạ cứ xôn xao Thôi em chán quá, em buồn quáAnh của em giờ cười với ai?Nói những gì đâu tức tối dạ!Em hồ nghi mãi, giận không thôi. Lạnh quá ánh trăng không sáng mấyCho nên chăn chiếu vẫn so leNếu hay thương nhớ là thương nhớEm dại gì đâu. Ngủ thiếp đi. 🌻 Xem thêm Thơ Huy Cận Hay Nhất🌻

tho han mac tu tho dien