Đọc xong vợ chồng A Phủ, nhất là đoạn trích diễn tả tâm hồn tái sinh của Mị trong đêm tình mùa xuân, ta như nghẹn lại trước sự thức tỉnh tâm hồn của Mị. Khiến ta tin tưởng vào sức sống bất diệt và sự tiềm tàng của mầm hi vọng niềm tin trong con người, dù đó có là cuộc sống khổ cực đến nhường nào. Từ khóa tìm kiếm:
Mỗi ngày khi Mị dậy sớm ra ngồi sưởi lửa, Mị đều hé mắt trông sang và thấy A Phủ bị trói đứng ở đó. Tâm của Mị đã chết, đến sinh mạng của mình còn chẳng quan tâm nữa thì sao Mị lại để ý được đến chuyện của người khác chứ. Linh hồn của Mị sớm đã lụi tàn, chết lặng trong gia đình nhà thống lí rồi.
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài). Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồngA Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xâydựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây
Dàn ý phân tích hành động cởi trói cho A Phủ. a. Mở bài: - Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Tô Hoài. - Nêu nội dung chính của văn bản, sau đó phân tích hành động cởi trói cho A Phủ của Mị. b. Thân bài: + Trước khi về làm dâu nhà thống lí: Xinh đẹp
"Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn nổi bật trong kho tàng văn chương đồ sộ của nhà văn. Trong truyện, hình tượng nhân vật Mị là một nét đặc sắc đánh dấu sự tinh tế và tài hoa nơi ngòi bút Tô Hoài. Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: "Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống.
Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Đề bài Đề bài vợ chồng a phủ theo cấu trúc mớiCảm nhận về thân phận của Mị và A Phủ qua hai đoạn trích sau trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài để thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm“Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả cao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thôn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.”“Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Mị trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mị chợt nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mi, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngây rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.”Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục 2015Liên quan Sơ đồ tư duy Vợ chồng a phủ đúng chuẩnGiới thiệu vấn đề nghị luận Trước cách mạng tháng Tám, Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm Dế mèn phưu lưu kí . Sau cách mạng tháng Tám và đi theo kháng chiến, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập Truyện Tây Bắc . Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc. Dẫn ra vấn đề nghị luậnThông qua khắc họa thân phận Mị và A Phủ, tác giả muốn nói lên cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi . Đặc biệt truyện đã ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của họ. Đoạn văn cảm động hơn cả chính là cảnh Mị và A Phủ bị trói. Tuy diễn ra trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng lại có sự đồng cảm sâu thêm Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong Vợ Chồng A PhủThân bài Khái quát chung “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” lấy bối cảnh ở miền núi Tây Bắc và câu chuyện xoay quanh 2 nhân vật Mị và A cảnh sáng tác Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng cùng bộ đội và giải phóng Tây Bắc.“Vợ chồng A Phủ” In trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Cảm nhận về đoạn 1 Thân phận khổ đau, nô lệ của MịNỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần. Tiếng sáo từ chân núi đến khi văng vẳng bên tai, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị. Từ sự nổi loạn trong suy nghĩ cho tới hành động tiếng nói nội tâm Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” hành động quấn lại tóc , với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử thêm Liên hệ Vợ Nhặt và Chí Phèo để thấy tình cảm nhân đạo của các nhà vănA Sử trói Mị vào cột bằng sợi dây cường quyền và thần quyền, bằng mái tóc thanh xuân, rồi lẳng lặng tàn nhẫn thắt dây lưng xanh, khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Khát vọng sống mãnh liệtSợi dây chỉ trói được thân xác mà không ràng buộc được tâm hồn Mị. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại và ảo giác của quá khứ. Cái cảm giác về hiện tại nô lệ tàn khốc đối lập với quá khứ tự do tươi đẹp, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa sống giữa chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ , gãi chân . Khi Mị tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, Mị trở về với thực tại. Lí trí nhắc Mị về thân phận qua tiếng chân ngựa gõ vào vách. Để sáng hôm sau, Mị lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước . Cảm nhận về đoạn 2 Thân phận khổ đau, nô lệ của A PhủCũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi . Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng bị trói đứng . Sự đồng cảmBước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt “Đêm ấy A Phủ khóc . Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen” . Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước . Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ . Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực . Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được . A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho thêm Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ NhặtTừ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ . Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ” . Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật , một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số văn Tô Hoài đã viết về Mị , A Phủ với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị , như A xétGiống nhauMỵ và A Phủ đều là nạn nhân của chế độ thực dân phong kiến bấy giờ và cả hai đều có khát vọng về đời sống tự do. Sức sống của Mỵ và A Phủ không bị hoàn cảnh đen tối tiêu diệt mà vẫn tiềm ẩn và cuối cùng bùng lên mãnh liệt. Đọc thêm Công thức làm dạng bài cảm nhận về chi tiết trong tác phẩm văn học ? Đơn giản nhưng vô cùng quan trọngVà chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị . Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của nhauMị bị giam cầm trong nhà Thống lí Pá Tra rất lâu nên Mị có tính cách cam phận, chịu đựng. Còn A Phủ mồ côi từ nhỏ, sống tự lập từ nhỏ, do đó, sự phản kháng của A Phủ mãnh liệt hơn, táo bạo bàiNhà văn không còn dừng ở sự quan sát từ bên ngoài mà đã hòa nhập sâu sắc vào cảnh sống, vào số phận, cuộc đời các nhân vật mình, tạo ra một cái nhìn và giọng điệu trần thuật gần gũi, thống nhất giữa người kể chuyện và nhân vật. Giá trị nhân đạo của tác phẩm càng giàu thêm bởi ngòi bút của nhà văn đã đồng cảm, trân trọng và khơi dậy ở nhân vật của mình những phẩm chất đẹp đẽ, những giá trị chân chính, những khát vọng sống hạnh phúc và tự posted 2019-03-26 100041.
Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu hay, được THPT Nguyễn Đình Chiểu tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Hành động Mị chạy theo A Phủ Hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ là hành động đi tìm hạnh phúc, tìm tự do. Vậy dưới đây là 3 bài văn mẫu phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ, mời các thầy cô và các bạn cùng tham đang xem Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ 1. Mở bài Giới thiệu vấn đề cần phân tích 2. Thân bài a. Khởi đầu cho hành động liều lĩnh của Mị là xuất phát từ số phận đau thương Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng ngấp nghé và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ. Mị bị ép trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà thống lý. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng cuối cùng vì chữ “hiếu” vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm. Đày đọa về mặt tinh thần khi Mị phải sống với người mình không yêu, Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. => Cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết. b. Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng ” Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. A Sử về trói Mị vào cột nhà, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. => Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do. c. Giải thoát cho A Phủ và tự giải thoát cho bản thân Tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời của A Phủ. Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. => Trong lòng Mị ý thức được rằng Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. – Câu nói “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất” vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc. – Hành động bỏ trốn của Mị Kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến. Trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. 3. Kết bài Cảm nhận chung về ý nghĩa hành động Mị chạy theo A Phủ Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 1 Trong các tác giả văn học Việt Nam, Tô Hoài được nhớ tới như một bậc thầy lão luyện, kho tàng văn học ông để lại đã gắn bó với bao lớp thế hệ, từ dế mèn phiêu lưu kí, đế vợ chồng A Phủ. Nói đến truyện ngắn vợ chồng A Phủ, ta không thể không nghĩ ngay đến nhân vật Mị. Cô gái đã thắp sáng lên ngọn lửa hi vọng cho mọi cô gái chịu áp bức ở Tây Bắc nước ta thời bấy giờ. Mị là hiện thân cho tấm lòng nhân đạo, và ngòi bút hết sức bén nhạy của Tô Hoài. Ông vốn là một người ưa tìm hiểu những phong tục tập quán, nên có cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh số phận, những khó khăn mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu lúc bấy giờ. Tô Hoài nhắc đến Mị, đầu tiên với những vẻ đẹp phẩm chất của cô, mà vẻ đẹp ấy đẹp lắm, trong sáng thuần khiết và thanh cao lắm, quý như một viên ngọc giữa núi rừng và không gì có thể làm viên ngọc ấy bị mài mòn và ngừng tỏa sáng. Tuy nhiên, hoàn cảnh của Mị lại trớ trêu, vì đúng là “hồng nhan bạc mệnh”. Mẹ mất sớm, Mị ở với cha, và ở trong một gia đình mà có truyền kiếp nợ thống lí. Nhưng Mị lại là một cô gái đẹp và tài năng, mị không những biết thổi sáo mà còn là cô gái khiến các chàng trai trong bản “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” không những thế Mị còn là một cô gái vô cùng hiếu thảo và ngoan ngoãn, Mị có thể chịu khổ cực vất vả để trả nợ thay cha, chứ nhất quyết không bán rẻ lòng tự trọng và chịu gò ép trong hoàn cảnh là con dâu nhà giàu. Mị hiện lên đầu truyện với những đức tính cao quý mà một cô gái như vậy, xứng đáng có được cuộc sống như mình hằng ao ước. Nhưng, đời không cho Mị tự do, dù Mị có muốn trốn chạy như thế nào đi chăng nữa. Hôm ấy, Mị bị A Sử bắt về cúng trình ma làm con dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, và kể từ đó, cuộc sống tâm hồn và thể xác Mị bị đọa đày khổ cực. Nhưng, với tấm lòng cảm thương sâu sắc, Tô Hoài đã để cho bản chất của Mị được hiện lên, những khát vọng, ước ao một thời lại trỗi dậy mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, hồi ức của một thời được sống với chính mình, với những gì mình ao ước trỗi dậy trong Mị. Mị “cứ uống ừng ực từng bát” rượu, rồi lại thấy “phơi phới trở lại” Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, nhận ra mình với A Sử đến với nhau chẳng vì tình. Mị muốn vui chơi, Mị muốn được sống và Mị khát khao sống. Nhưng, ngay hôm đó, khi ngọn lửa tâm hồn Mị vừa trỗi dậy thì A Sử đã trói chặt Mị vào cột nhà, đầy đau đớn và thương tâm, Mị không khóc được, không cựa quậy được, và Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Ngày A Phủ bị giải đến nhà thống lí, và lần đầu tiên gặp A Phủ, Mị vẫn còn cái tâm trạng khá thờ ơ. Bởi trong lòng Mị vốn đã chết, nên cuộc sống với Mị cũng chỉ là sự lặp đi lặp lại của thời gian và của sự tồn tại mà thôi. Nhưng, hôm ấy lại khác, “Mị lé mắt trông sang” chợt thấy một giọt nước mắt đắng cay, tủi hờn từ A Phủ. Giọt nước mắt lóng lánh ấy đã nhắc lại cho Mị nhớ thời gian Mị bị thằng A Sử trói đứng đầy nhẫn tâm, tàn ác. “Chúng nó thật độc ác” Mị nhận ra một sự thật mà bấy lâu nay ẩn chứa từ sâu trái tim đã nguội lạnh của mình. “chết đau, chết đói, chết rét” Mị cảm thương cho A Phủ bằng chính sự cảm thương Mị có ngày trước, trái tim tiềm tàng của Mị được thức tỉnh nhanh chóng. Và dứt khoát, Mị cắt dây trói và nói “đi ngay”.. Và hành động trói dây buộc A Phủ cùng việc ngay sau đó Mị chạy theo A Phủ vào bóng tối, cũng là điều tất yếu của một con người đã bị dồn nén đến mức cùng cực. sức sống mạnh mẽ được trỗi dậy, và đã kết thúc quãng thời gian đầy ải, tối tăm mà Mị đã phải chịu trong nhà thống lí Pá Tra, hành trình đi theo A Phủ cũng chính là một hành trình tìm đến sự sống mới của Mị, và những hi vọng dù là trong bóng tối, Mị cũng đã không còn gì để mất, để phải sợ nữa.. Mị là nhân vật số phận, và nhờ số phận hành động của Mị đã kể cho ta nghe về một ngòi bút đầy nhân đạo, và một trái tim đầy cảm thông của Tô Hoài. Nhà Văn đã góp một tiếng nói chung vào dòng chảy của văn học dân tộc, để ca ngợi những phẩm chất cao quý của người phụ nữ, và khẳng định niềm tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống luôn hướng về cái đẹp, cái thiện. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 2 “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ – hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ. Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra. Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới. Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đem đến sự hồi sinh cho Mị – một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc. Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện đề tài, kết cấu, nhân vật. Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 3 Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm nổi bật của nền văn học hiện thực nước ta những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc miền núi và số phận bất hạnh của họ, cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng đáng quý, đáng trân trọng. Có thể thấy rõ rằng văn của Tô Hoài không nhằm mục đích chính là phản ánh hiện thực mà chủ yếu là để ca ngợi những vẻ đẹp của con người ở tầng lớp tận cùng đáy của xã hội, chịu sự áp bức của cường quyền và thần quyền phong kiến. Thế nên nhân vật của ông luôn có những sự chuyển biến cảm xúc, tâm trạng tinh tế, cùng những bước ngoặt rất “đắt” thể hiện sự vùng lên mạnh mẽ để tự giải thoát bản thân khỏi số phận đớn đau, mà có lẽ ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là cảnh Mị chạy theo A Phủ trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra. Nói về hành động bỏ trốn của Mị, nếu như không xét đến một hoàn cảnh nào khác thì đó là một sự kiện xấu xa, trắc nết, bởi lẽ trong phong tục truyền thống của các dân tộc miền núi, hay trong nề nếp gia phong của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn đề cao sự chung thủy, kiên trinh của người đàn bà. Mị đã cúng trình mà nhà thống lý Pá Tra, thì đã là người của nhà ấy, là vợ của A Sử, chết cũng phải là ma của ngôi nhà này, không thể đổi khác. Thế nhưng khi xét đến toàn bộ câu chuyện, ta lại mới nhận ra hành động bỏ trốn của Mị dường như là một điều tất yếu, là sự kiện nhất định phải xảy ra sau một loạt các chuỗi biến cố trong cuộc đời bất hạnh của Mị. Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng để ý và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ, có lẽ sẽ đơm thành trái nếu không có món nợ truyền kiếp của cha Mị. Thêm vào đó Mị cũng là người con gái chăm chỉ, chịu khó, Mị sẵn sàng lên nương trồng bắp, trồng sắn để trả nợ thay cha, chứ không muốn gả vào làm dâu nhà giàu có. Điều đó thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, không tham phú phụ bần của Mị, và đáng lý rằng một người con gái như vậy phải đáng được hưởng một cuộc đời ấm êm, dẫu không giàu sang nhưng hạnh phúc, tự do. Thế nhưng sức mạnh của cường quyền và thần quyền phong kiến đã không cho phép điều đó xảy ra, A Sử đã dùng vũ lực để bắt Mị về cúng trình ma, ép Mị trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà nó. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ, Mị chạy về khóc xin cha,… thế nhưng cuối cùng vì chữ “hiếu” vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Bao nhiêu niềm vui sướng, hạnh phúc của tuổi trẻ dường như đã tàn lụi và nguội lạnh như một nắm tro tàn trong tâm hồn của người đàn bà tội nghiệp. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm, Mị quên cả cách giao tiếp nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, sống lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Khổ sở đến độ Mị còn ý thức một cách đau đớn tột cùng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Không chỉ khổ sở về mặt thể xác mà cuộc đời của Mị còn là những đày đọa về mặt tinh thần, Mị phải sống với người mình không yêu, phải từ bỏ mối tình dang dở của mình, không còn được thổi sáo, thổi lá, chơi xuân cùng chị em như khi còn ở nhà. Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi mà chỉ có một ô cửa bé bằng bàn tay “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Và cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết, Mị sống trong cảnh đau khổ tột cùng ấy sao có thể không chai lì, tuyệt vọng và chết lặng cho được. Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ ấy là nhờ vào âm thanh của sự sống Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh. Nó đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc, Mị nhẩm hát theo tiếng sáo, rồi Mị cũng học theo người ta uống rượu, uống ừng ực từng bát. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng”Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc định đi chơi, thì A Sử về nó trói Mị vào cột nhà, ngay lúc này đây lòng Mị vẫn bay theo những tiếng sáo ngoài đường, rồi khi trở lại thực tại, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. Một kể vốn trước đây đã không còn thiết tha chuyện chết hay sống gì vậy mà giờ đây lại thấy sợ hãi, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt”. Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do, Mị không muốn chết vào lúc này, đời Mị còn dài lắm, dù rằng Mị cũng chưa nghĩ ra được giải pháp giải thoát cho bản thân. Đến khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng giữa sân vì làm mất một con bò và có thể phải đền mạng vì con bò ấy, Mị thoạt đầu tỏ ra chẳng quan tâm, bởi lẽ Mị lo cho thân mình còn chưa xong, nói gì đến những kẻ khác. Thế nhưng khi tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, lòng Mị đã có những biến đổi lớn. Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời vừa mới bắt đầu của A Phủ mà nay lại sắp phải chấm dứt chỉ vì cái sự nghèo đói và cách biệt tầng lớp. Từ một người phụ nữ yếu đuối, ấy vậy mà Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Ban đầu có lẽ Mị đã định rằng mình dù gì có chết cũng phải là ma của nhà này, thế nên cô quyết định hy sinh để cắt dây trói cho A Phủ, còn bản thân ở lại chịu tội. Tuy nhiên, sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. Trong lòng Mị bỗng nhiên vỡ ra một cái gì đó, phải rồi Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. Câu nói “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất” vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc, mong muốn khao khát được làm lại một cuộc đời mới, một cuộc đời do chính bản thân mình định đoạt làm chủ. Hành động bỏ trốn của Mị, đã kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến, trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Cũng lại chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mà chỉ có thể giam cầm được thể xác của họ mà thôi. Hành động của chạy theo A Phủ của Mị là một hành động mang tính bước ngoặt lớn, minh chứng rằng một con người chỉ cần có tấm lòng khao khát tự do, sự vùng dậy mạnh mẽ, sức sống tiềm tàng mãnh liệt thì họ có thể tự giải thoát cho mình bất cứ lúc nào. Đánh dấu một bước chuyển biến mới trong tư duy của những con người ở miền núi, cường quyền và thần quyền phong kiến đã đến ngày tận thế, suy tàn, không còn phù hợp trong thời đại mới, không còn đủ sức để đàn áp con người thấp cổ bé họng nữa. Mà có thể một mai đây chính nó sẽ bị những con người này lật đổ, để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn công bằng hơn. Đăng bởi THPT Nguyễn Đình Chiểu Chuyên mục Tài Liệu Lớp 12
Gợi ý làm bài Đây là kiểu bài so sánh trên sự phân tích nhân vật. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là câu chuyện về cuộc đời của Mị và A Phủ. Hai nhân vật này có những điểm giống nhau về số phận và tính cách, song lại có nhiều điểm khác nhau, đù cả hai đều là nhân vật chính, gắn bó với nhau suốt chiều dài của tác phẩm. Trình bày bài viết theo các ý chính sau 1. Sự giống nhau. - Tính cách Mị và A Phủ đều là những người lao động có phẩm chất tốt đẹp. Cả hai đương còn trẻ. + Mị là người con gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống. Mị cũng là rất hiếu thảo với cha. Do đó, dù biết quý trọng cuộc sống tự do, khao khát hạnh phúc của riêng mình, nhưng Mị vẫn đành lòng làm người con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, cam chịu kiếp, sống ngựa trâu. + A Phủ là thanh niên khỏe mạnh, giàu bản lĩnh và thiết tha yêu đời. Khi cả làng Hángbla bị đậu mùa, chết cả, người ta bắt A Phủ đem xuống bán đổi thóc của người Thái dưới cánh đồng. Mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ bỏ trốn, lưu lạc nơi này, nơi khác. Lớn lên, anh biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Khi A Sử đến phá đám chơi của thanh niên trong làng, A Phủ, mặc dù biết hắn là con quan, vẫn không sợ, xông vào đánh. - Số phận + Mị và A Phủ đều là những ngườỉ nghèo, bị áp bức, bóc lột và cuối cung phải làm nô lệ cho nhà thống lý Pá Tra. Mị trở thành con dâu gạt nợ; A Phủ là người ở gạt nợ. + Sau một thời gian bị đày đọa, cả hai đều an phận. Nhưng rồi đã tự giải thoát. Họ đi từ đấu tranh tự phát đến đấu tranh tự giác. Đây cũng là con đường tất yếu để tìm đến hạnh phúc của những người nghèo miền núi dưới chế độ thực dân phong kiến. 2. Sự khác nhau - Tính cách + Mị là người con gái có tâm hồn rất nhạy cảm. Chỉ tiếng sáo, tiếng hát đêm xuân vọng lại đã khiến cô thiết tha bổi hổi, sống lại thế giới của ngày trước đầy sắc màu và tươi trẻ của mình. Mị lại là người sâu lắng, chín chắn, giàu sức sống biểu hiện qua đời sống nội tâm phong phú, khi sôi nổi, mãnh liệt, khi trầm uất, nghẹn ngào... Vì thế, tác giả chú ý khắc họa đời sống nội tâm của nhân vật Mị Nhân vật nghĩ nhiều, nói ít, ít hành động, nhiều đoạn chỉ là độc thoại nội tâm như đêm mùa xuân Mị nghe tiếng sáo, đêm cô cởi trói cho A Phủ... Còn có thể thấy rõ, Mị là phụ nữ nên lắm lúc yếu đuối, dễ xúc động nhìn thấy A Phủ khóc thì thương cảm... + A Phủ là chàng thanh niên nghèo, mồ côi, sống tự lập từ bé. Cuộc sống đó đã rèn luyện cho A Phủ sự cứng cỏi, ngang bướng, lòng ngay thẳng đánh lại A Sử; vào rừng săn bò tót, chăn bò, chăn ngựa; khi bị đánh vẫn chịu đứng, không nói năng gì; khi được cởi trói thì vùng bỏ chạy.... Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc họa nhân vật bằng hành động. - Số phận + Mị tiêu biểu cho người phụ nữ nghèo miền núi dễ dàng bị cướp, bị giày vò thân xác, làm con dâu gạt nợ là gánh chịu thân phận thấp kém hơn cả con vật.... + A Phủ tiêu biểu cho thanh niên nghèo miền núi, là người ở gạt nợ, là công cụ lao động đắc lực cho chủ. 3. Đánh giá Mỗi nhân vật, nhà văn tập trung khắc họa theo cách riêng, trở thành những chân dung tiêu biểu cho một lớp nguời. Dù là A Phủ, hay Mị, khi xây dựng, Tô Hoài đều gửi gắm nhiều tình thương yêu, trân trọng.
Các bạn cùng tham khảo phân tích bài Vợ chồng A Phủ để nắm cụ thể hơn nội dung của tác phẩm. Bài hướng dẫn dưới đây sẽ thể hiện rõ sức sống tiềm tàng của Mị và phân tích nhân vật A Phủ rõ nét nhất cũng như những tư tưởng và giá trị nội dung tác giả muốn truyền tải. Hy vọng bài viết dưới đây sẽ giúp bạn nhiều hơn trong quá trình học và ôn luyện nhé. Các Nội Dung ChínhTìm hiểu chung để phân tích bài Vợ chồng A PhủGiới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A PhủPhân tích bài Vợ chồng A Phủ chi tiếtTổng kết phần phân tích bài Vợ chồng A PhủTruyện ngắn vợ chồng A Phủ Tìm hiểu chung để phân tích bài Vợ chồng A Phủ 1. Tác giả Tác giả truyện vợ chồng A Phủ – Tô Hoà – Tô Hoài, tên khai sinh là Nguyễn Sen. – Ông sinh ra tại quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. – Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. – Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường. – Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận… – Năm 1996, Tô Hoài được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. – Một số tác phẩm tiêu biểu Dế Mèn phiêu lưu ký truyện dài, 1941 O chuột tập truyện ngắn, 1942 Cỏ dại hồi ký, 1944 Truyện Tây Bắc tập truyện, 1953 Tự truyện 1978 Quê nhà tiểu thuyết, 1981 Cát bụi chân ai hồi ký, 1992 Chiều chiều tiểu thuyết, 1999 Chuyện cũ Hà Nội ký sự, 2010… Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ Xuất xứ “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” 1953 của nhà văn Tô Hoài. Hoàn cảnh sáng tác Năm 1952, Tô Hoài đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài tám tháng, nhà văn đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc” với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu căn cứ du kích trên các núi cao đến các bản làng mới giải phóng. Chuyến đi đã giúp Tô Hoài hiểu hơn về cuộc sống và con người miền núi. Truyện là thành quả sau chuyến đi thực tế đó. Bố cục Gồm ba phần Phần 1 Từ đầu đến “ Đến bao giờ chết thì thôi ”. Hoàn cảnh sống của Mị. Phần 2. Tiếp theo đến “ Vì thế mà sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài ”. Cuộc đời của A Phủ. Phần 3. Còn lại. Cuộc gặp gỡ và tự giải thoát của Mị và A Phủ. Ý nghĩa nhan đề – Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập Truyện Tây Bắc 1953. Trong suốt những ngày tháng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc” với cán bộ và đồng bào miền núi Tây Bắc đã đem đến cho nhà văn Tô Hoài nguồn cảm hứng sáng tác. – Tô Hoài đặt cho tác phẩm của mình nhan đề là “Vợ chồng A Phủ” – đây là một nhan đề ngắn gọn nhưng mang nhiều ý nghĩa. Nhan đề trên đã chỉ ra cho người đọc hai nhân vật trung tâm của tác phẩm A Phủ và Mị. – Đồng thờ cho thấy mối quan hệ giữa hai nhân vật “vợ chồng”. A Phủ và Mị vốn là hai con người xa lạ. Nhưng vì món nợ với nhà thống lí Pá Trá mà gặp gỡ Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lý. A Phủ vì đánh người làng mà phải nộp tiền theo lệ làng nhưng không có tiền, được thống lý cho mượn rồi lại thành mang nợ. Trong những ngày tháng khổ sở của Mị tại nhà thống lý Pá Tra, sự xuất hiện của A Phủ đã đánh thức tấm lòng đồng cảm trong tâm hồn vốn đã vô cảm của Mị. Bởi họ là những con người cùng cảnh ngộ. Trong đêm Mị giải cắt dây cởi trói cứu A Phủ, dường như cũng chính là đang giải cứu cho bản thân. Hai người trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra đến Phiềng Sa, cũng tìm đến được với ánh sáng của cách mạng. Quá trình họ gặp gỡ và trở thành vợ chồng cũng chính là quá trình đi ra từ bóng tối đến ánh sáng. Cuộc đời của vợ chồng A Phủ khi gặp được lý tưởng của cách mạng đã thay đổi hoàn toàn. Nhà văn Tô Hoài sáng tác tác phẩm này nhằm phản ánh số phận đau thương và con đường tìm đến tự do của nhân dân Tây Bắc. Nhan đề “Vợ chồng A Phủ” đem đến cho người đọc những hiểu biết ban đầu về tác phẩm. Phân tích bài Vợ chồng A Phủ chi tiết Xuất thân của Mị và A Phủ – Mị xuất thân là một cô gái người dân tộc Mông, duyên dáng, xinh đẹp và tài giỏi, có đời sống nội tâm phong phú, khát vọng tự do lớn lao và sức sống tiềm tàng của Mị đáng ngưỡng mộ. Vì gia cảnh nghèo khó nên cô đã phải tủi nhục làm dâu gạt nợ cho gia đình Thống lí Pá tra. – A Phủ cũng là chàng trai người dân tộc Mông, chàng mang nhiều phẩm chất đẹp của người lao động, thể hiện tính cách gan góc, dũng cảm, và cũng mang trong mình khát vọng tự do mãnh liệt. Vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng của Mị – Trước khi Mị làm con dâu gạt nợ + Mị là cô gái trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, và thổi sáo rất hay. + Mị cũng đã từng biết yêu và luôn khao khát sống có gia vị tình yêu. + Mị cũng rất hiếu thảo, siêng năng, chăm chỉ, Mị ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống tự do vì thế nàng sẵn sàng chịu vất vả làm nương ngô để cố gắng trả nợ thay cho bố. – Từ khi Mị trở thành con dâu gạt nợ + Nguyên nhân xuất phát từ món nợ truyền kiếp bởi hủ tục cướp vợ của người Mông đem về để cúng trình ma. Người lao động bị kìm kẹp, chèn ép bởi cả cường quyền và thần quyền. + Mị phải chịu đựng những đày đọa, khổ đau về thể xác Mị phải làm việc không còn biết ngày đêm, không gian hay thời gian nữa; làm từ sáng đến đêm mọi công việc “không bằng con trâu con ngựa”; dù làm nhiều đến thế nhưng vẫn bị đánh đập man rợ bị trói, đạp vào mặt, … + Mị dần quen với những tủi nhục, khổ đau đó và trở nên chai sạn từ một cô gái vui vẻ, hồn nhiên, bây giờ lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, cuộc sống tù túng quanh bốn bức tường, qua khung cửa sổ chỉ thấy một màu trăng trắng không biết là sương hay là nắng, sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, chuỗi ngày cứ thế lặp đi lặp lại nên “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”. + Trong đêm hội mùa xuân, Mị khao khát được là chính Mị, sống đúng với lứa tuổi xuân của mình và sức sống của Mị bắt đầu trỗi dậy • Âm thanh nhộn nhịp của thế giới ngoài kia tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,… tất cả đã đánh thức tâm hồn Mị, gợi nhớ tới những kỉ niệm trong quá khứ. • Mị bỗng khác hẳn, “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm…”, bùng lên trong Mị niềm khát khao tự do mãnh liệt, thắp sáng lên căn phòng tối tăm thường ngày, Mị muốn “đi chơi tết” như bao người ở tuổi Mị và để chấm dứt sự tù đày khốn khổ này. • Khi bị A Sử trói lại không cho đi chơi, lòng Mị vẫn lửng lơ, bay bổng theo tiếng sáo ngoài kia, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Nhưng rồi lúc vùng dậy cô chợt tỉnh và trở về với hiện thực. => Ở Mị ẩn chứa tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức sống ấy vẫn ở đó và luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc mạnh mẽ ấy, chỉ chờ có cơ hội là bùng lên mạnh mẽ mà thôi. + Hành động cởi trói cho A Phủ • Ban đầu Mị xuất hiện với thái độ dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại như một cái xác không hồn. Mị cởi trói cho A Phủ • Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ chảy dài thì Mị lại thấy thương, thấy đồng cảm và chợt nhớ đến hoàn cảnh của chính mình ngày đó trong quá khứ, Mị lại thương mình rồi thương cho những kiếp người bị đày đọa như A Phủ “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”. • Mị không thể ngó lơ trước tội ác dã man của nhà thống lí, Mị đã cắt dây đay để cởi trói cho A Phủ. Sau hành động quả quyết, đầy táo bạo ấy Mị sợ cái chết, Mị sợ nhà thống lí nên Mị không thể tiếp tục ở lại đây thêm nữa, cô quyết định chạy theo A Phủ để tìm lối thoát, tìm sự sống cho cuộc đời mình. => Mị là người con gái mạnh mẽ, giàu ý chí và tình cảm, hành động của Mị đã đạp đổ ách cường quyền, thần quyền đày đọa của bè lũ thống trị miền núi. A Phủ đại diện cho số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng – Hoàn cảnh + Mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích bên mình. + Lớn lên chàng đi làm thuê làm mướn rồi sau đó trở thành người ở để gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Hình tượng nhân vật A Phủ – Khi trở thành người ở gạt nợ cho nhà thống lí + Nguyên nhân A Phủ đánh con quan, và sau khi thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở tại một xã hội không công lý thì chàng phải chịu lẽ phạt lấy thân gạt nợ. + A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất • Phải làm những việc nặng nhọc, nguy hiểm “đốt rừng, cày nương, săn bò tót,…” • Bị hành hạ và đối xử tệ bạc không bằng một con bò, có lần chàng làm mất bò mà bị trói đứng đến chết. + Tích cách • Lúc nhỏ chàng sống mạnh mẽ, ngang bướng khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi cao. • Khi trưởng thành lại là chàng trai khỏe mạnh, siêng năng, chăm chỉ, tháo vát, làm đủ mọi công việc. • Là người luôn đấu tranh cho lẽ phải đánh A Sử, khao khát tự do nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói. => Qua phân tích nhân vật A Phủ ta thấy chàng điển hình cho chân dung chàng trai miền núi Tây Bắc khỏe khoắn, mạnh mẽ; tuy mang số phận đau thương dưới ách thống trị kìm kẹp nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng. Tổng kết phần phân tích bài Vợ chồng A Phủ Giá trị nội dung – Tác phẩm ẩn chứa nhiều giá trị nhân đạo sâu sắc sự cảm thông của tác giả với số phận khổ đau, cùng cực của những con người phải chịu sự áp bức, lên án tố cáo bọn thống trị miền núi, bọn thực dân man rợ và đồng thời ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt, tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc. Giá trị nghệ thuật – Tình huống truyện được xây dựng cuốn hút, đặc sắc, gay cấn. – Hình tượng nhân vật được khắc họa sinh động, có cá tính riêng. – Nghệ thuật trần thuật cùng giọng kể trầm lắng, đầy cảm thông. – Ngôn ngữ được chọn lọc, sáng tạo vừa lãng mạn vừa giàu tính tạo hình. Với những hướng dẫn chi tiết về cách thức và nội dung phân tích bài Vợ chồng A Phủ như trên sẽ cho bạn cái nhìn tổng quát về nội dung tác phẩm và nắm được những ý chính của bài. Hy vọng Kiến Guru sẽ là nguồn tham khảo quen thuộc và tin cậy của các bạn không chỉ bài phân tích này mà còn nhiều tác phẩm khác trong chương trình học của mình nhé. Truyện ngắn vợ chồng A Phủ Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý 1 Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều , đồn Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuộc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý. Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mỵ về làm người nhà quan thống lý. 1 Tổ chức cai trị của đế quốc Pháp trước đặt chức thống lý cho bọn chức việc người Mông, cũng như chánh thổng, lý trưởng ở xuôi, phìa ở làng Thái. Ngày xưa bố Mỵ lấy mẹ Mỵ không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho nhà chủ nợ một nương ngô. ến tận khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ. Cho tới năm ấy Mỵ đã lớn, Mỵ là con gái đầu lòng. Thống lý đến bảo bố Mỵ – Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ tho. Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mỵ bảo bố rằng – Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu. Tết năm ấy, tết vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đứng nhắn cả chân vách đầu buồng Mỵ. Một đêm, khuya Mỵ nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hẹn của người yêu. Mỵ hồi hộp lặng lẽ quờ tay lên, gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ. Một ngón đeo nhẫn. Người yêu Mỵ đeo nhẫn ngón tay ấy. Mỵ nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay bắt Mỵ bước ra. Mỵ vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mỵ rồi bịt mắt cõng Mỵ đi. Sáng hôm sau, Mỵ mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lý. Họ nhót Mỵ vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn nhảy múa. A Sử đến nhà bố Mỵ. A Sử nói – Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma nhà tôi. Bây giờ tôi đến cho bố biết. Tiền bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi 1 Rồi A Sử về. Ông lão nhớ câu nói của thống lý dạo trước; cho con gái về nhà thống lý thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nự. Không làm thế nào khác được rồi. Có đến mấy tháng, đêm nào Mỵ cũng khóc. Một hôm, Mỵ trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mỵ quì, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mỵ cũng khóc, đoán biết lòng con gái – Mày về chào lậy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi! 1 người Mông có tục cướp vợ trai gái yêu nhau, bằng lòng nhau có khi chỉ anh con trai muốn lấy người con gái giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến nhà hiếm. Người con trai giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến nhà người yêu, bí mật “cướp” đi. Hôm sau, người trai trở lại báo tin cho bố người gái ấy là tôi đã cướp được con gái ông làm vợ. Thế là phong tục bắt bố phải nhận lời. Cưới lối “cướp” như thế, người tai mất rất ít tiền. Thường mùa xuân ăn Tết, con trai hay đi “cướp” vợ. ó là phong tục vui, thanh niên rất thích. Bây giờ vẫn thường xảy ra. Mỵ chỉ bưng mặt khóc. Mỵ ném nắm lá ngón1 xuống đất. Nắm lá ngón Mỵ đã đi tìm hai trong rừng. Mỵ vẫn giấu trong áo. Thế là Mỵ không đành lòng chết. Mỵ chết thì bố Mỵ còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mỵ lại trở lại nhà thống lý. Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mỵ chết. Nhưng Mỵ cũng không còn nghĩ đến Mỵ có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mỵ cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày. Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. ở buồng Mỵ nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. ến bao giờ chết thì thôi. Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những những lều quanh nương để sưởi lửa. ở Hồng Ngài, người ta thành lệ, cứ ăn tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thế cho kịp mưa xuân xuống, đi vỡ nương mới. 1 một thứ thuốc độc Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ. Nhưng trong các làng Mông ỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tìm man mát. ám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. “Mày có con trai con gái Mày đi nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu” Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới. ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy. Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa. Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mỵ lịm mặt đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mỵ đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mỵ thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mỵ uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác. Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mỵ không biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mỵ mới đứng dậy. Nhưng Mỵ không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi hết. Bấy giờ Mỵ ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nay Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ, Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chì thấy nước mặt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường. ” Anh ném pao Em không bắt Em không yêu Quả pao rơi rồi…” A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trằng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mỵ nói. Bây giờ Mỵ cũng không nói. Mỵ đến góc nhà, lấy ông mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo. Mỵ muốn đi chơi. Mỵ cũng sắp đi chơi. Mỵ quấn lại tóc. Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mỵ rút thêm cái áo. A Sử hỏi – Mày muốn đi chơi à? Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói tay Mỵ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mỵ vào cột nhà. Tóc Mỹ xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại. Trong bóng tối, Mỵ đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mỵ vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!” Mỵ vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mỵ không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gò vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mỵ nín khóc, Mỵ lại bồi hồi. Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại tràn trề tha thiết nhớ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sửa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ. Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm âm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buông quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mỵ. Mỵ không thể biết. ời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuổi con ngựa của chồng. Mỵ chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến, vợ chết rồi. Mỵ sợ quá, Mỵ cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây chói xiết lại, đâu đứt từng mảnh thịt. Có tiếng xôn xao phía ngoài. Rồi một đám đông vào nhà. Thống lý Pá Tra xuống ngựa vứt cương cho “thị sống” một chức việc đi hầu thống lý như người làm mõ thời trước dắt ngựa vào tàu. Nghe như bọn họ khiêng theo con lợn, hoặc một người phải trói, vừa vứt huỵnh xuống đất, cứ thở phò phò. A Sử chệnh choạng vào buồng. áo rách toạch một mảnh vai. Cái khăn xéo trắng loang lổ máu, xụp xuống quanh trán. A Sử nằm lăn ra giường. Thống lý Pá Tra bước vào. Theo sau thống lý, một lũ “thống quán” Một chức việc như phó lý “xéo phải” như trưởng thôn và bọn thị sống vẫn thường ra vào hầu hạ, ăn thịt uống rượu, hút thuốc phiện nhà thống lý. Có người bấy giờ mới nhìn thấy Mỵ phải trói đứng trong cột. Nhưng cũng không ai để ý. Họ xúm lại quanh giường A Sử. Pá Tra, tay vẫn cầm cái roi ngựa, lại từ từ đi ra. Mỵ nhắm mặt lại, không dám nhìn. Mỵ chỉ nghe hình như có tiếng ông thống lý gọi người ra ngoài. Mỵ hé nhìn ra, thấy chị dâu bước tới. Người chị dâu ấy chưa già, nhưng cái lưng quanh năm phải đeo thồ nặng quá, đã còng rạp xuống. Người chị dâu đến cởi chói cho Mỵ. Sợi dây gai bắp chân vừa lỏng ra, Mỵ ngã sụp xuống. Chị dâu khẽ nói vào tai Mỵ – Mỵ! đi hái thuốc cho chồng mày. Mỵ quên cả đau đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được. Mỵ phải ôm vai chị dâu. hai người khổ sở dìu nhau bước ra. Vào rừng tìm lá thuốc, Mỵ nghe nói lại, mới biết A Sử đi chơi bị đánh vỡ đầu. Nửa đêm qua, A Sử vào làng tìm đến đám tiếng sáo, tiếng khèn. Nhiều chàng trai làng ấy vào các làng khác, chơi quay, thổi sáo suốt ngày, chập tối vừa tan xong chầu rượu trong nhà, bây giờ vẫn còn chưa chịu tan về. Lúc A Sử và chúng bạn kéo đến, không còn ai chơi trong nhà. Nhưng người ra người vào còn dập dìu quanh ngõ. A Sử đứng ngoài, tức lắm. Nó bàn với lũ khác, doạ đánh bọn trai lạ bám quanh nhà, khiến bọn A Sử bị vương không thể vào được. Bọn A Sử ném vào vách. Ông bố trong nhà ra chửi. Vẫn ném. Ông lão vào trong cửa, bắn ra hai phát súng. Thế là tan những đám hẹn. Nhưng cũng chưa người trai nào vội về. Họ tản vào các nhà quen trong xóm. ợi sáng mai lại lên sân đánh pao với con gái trong xóm. Bọn A Sử cũng không chịu để cánh kia yên. Sáng sớm, khi họ vừa ra đầu ngõ, bọn A Sử đã kéo đến gây sự. A Sử đi trước, nạm vòng bạc rủ xuống tua chỉ xanh đỏ, chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo. A Sử hùng hổ bước ra. Bọn kia đứng dồn cả lại, xôn xao. – Lũ phá đám ta hôm qua đây rồi. – A Phủ đâu! A phủ đánh chết nó đi! Một người to lớn chạy vụt ra, vung tay ném con quay thẳng vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Người làng nghe tiếng hò hét đổ ra. Bọn trai làng lạ tản hết lên rừng. Mấy người đuổi đón đầu A Phủ. A Phủ bị bắt sống, trói gô chân tay lại. Vừa lúc thồng s lý Pá Tra tới. Chúng nó xọc ngang cái gậy, khiêng A Phủ mang về ném xuống giữa nhà thống lý. Mỵ đi hái được lá thuốc về, thấy trong nhà càng đông hơn lúc nãy. Ngoài sân, dưới gốc đào lại buộc thêm mấy con ngựa lạ. Mỵ đi cửa sau vào, lé mặt nhìn thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà. Mỵ đoán đấy là A Phủ. Bọn chức việc cả vùng Hồng Ngài đến nhà thống lý dự đám kiện. Các lý dịch, quan làng thống quán, xéo phải, đội mũ quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ. Trong nhà thống lý đã bày ra năm bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp. Cả những người chức việc bên làng A Phủ cũng tới. Chỉ bọn trai làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ, vì họ bị gọi sang hầu kiện. Bọn chức việc nằm dài cả trên khay đèn. Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lý Pá Tra. Thống lý hút xong một đợt năm điếu, đến người khác, lại người khác, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện. Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng và đi bên ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút ấy. Một loạt người vừa hút xong, Pa Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất gọng lè nhè gọi – Thằng A Phủ ra đây. A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá… Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, kể, chửi , lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. Trong buồng bên cạnh, Mỵ cũng thức suốt đêm, im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho A Sử. Lúc nào Mỵ mỏi quá, cựa mình, những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mỵ lại gục đầu nằm thiếp. A Sử đạp chân vào mặt Mỵ. Mỵ choàng thức, lại nhặt nắm lá thuốc xoa đều đều trên lưng chồng. Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến ghỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch. Sáng hôm sau, đám kiện đã xong. Mấy người chẳng biết từ bao giờ, ngủ ngáy ngay bên khay đèn. Bọn xéo phải đang bắc cái chảo đồng và xách ấm nước ra nấu thêm lạng thuốc để hút ban ngày cho các quan làng thật tình, các quan làng còn một tiệc ăn cỗ nữa. Thống lý mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc hoa xoè bày lên mặt tráp, rồi nói – Thằng A Phủ kia, mày đành người thì làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đông, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ mày. A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. ời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay. A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi mà về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp. Con lợn vừa bắt về cho A Phủ thết làng ăn vạ đã kêu eng éc ngoài sân. ếm tiền rồi, A Phủ không phải quỳ, phải đánh nữa. A Phủ đứng lên cầm con dao, chân đau bước tập tễnh, cùng với trai làng ra chọc tiết làm thịt lợn hầu làng. Trong nhà, thuốc phiện vẫn hút rào rào. Thế là từ đấy A Phủ phải ở trừ nợ cho nhà quan thống lý. ốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. A Phủ đương tuổi sức lực. i làm hay đi săn cái gì cũng phăng phăng. Không còn có lúc nào trở về làng bên. Nhưng A Phủ cũng chẳng muốn trở về làm gì bên ấy. A Phủ cũng không phải người bên ấy. Bố mẹ đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắn Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại có một mình A Phủ. Có người làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. i làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác. Chẳng bao lâu A Phủ đã lớn, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng nhiều cô mê. Nhiều người nói “ứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta ao ước đùa thế thôi chứ phép rượu cũng chẳng to hơn phép làng, còn tục lệ cưới xin, mà A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, A Phủ không thể lấy nổi vợ. Tuy nhiên, đang tuổi chơi, trong ngày tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ. A Phủ cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Vì thế sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài. Một năm kia, phải khi đang đốt rừng. Hổ gấu từng đàn ra phá nương, bắt mất nhiều bò ngựa. Nhà thống lý lúc nào cũng đầy ngựa trong tàu trước cửa, đầy lưng bò đứng chen chân trong cột cửa, và dê, chó, lợn nằm quanh nhà. Ngày nào cũng lũ lượt hàng mấy chục con đi nương ăn. Bây giờ gặp khi rừng đói, mỗi lần bò ngựa đi nương, A Phủ phải ở lại trong rừng. A Phủ ở lều hàng tháng ngoài nương. êm đến, dồn bò ngựa về nằm chầu nhau ngủ quanh lều. Mấy ngày A Phủ mê mải đi bẫy dím, không đếm được ngựa. Hôm ấy vào rừng thấy vết chân hổ. A Phủ vội phóng ngựa chạy vờn quanh đàn, dồn chúng quấn lại để đếm. A Phủ đếm lại mấy lần. Thiếu một con bò. A Phủ nhào vào rừng, lần theo lốt chân hổ, tìm được con bò đã bị hổ ăn thịt, chỉ còn lại một nửa mình nằm ngay dưới cây thông cụt. A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng “Con hổ này to lắm. Hay còn ngưởi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào cũng bắn được”. Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con bò xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra hỏi – Mất mấy con bò? A Phủ trả lời tự nhiên – Tôi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được. Con hổ này to lắm. – Pá Tra hất tay, nói – Quân ăn cướp mất bò tao. A Sử đâu! em súng đi lấy con hổ về. Rồi Pá Tra quay lại, bảo A Phủ – Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không bắn được con hổ về thì tao cho mày đứng chết ở đấy. A Phủ cãi – Tôi được con hổ ấy còn nhiều tiền hơn con bò. Pá Tra cười – Lấy cọc dây mây vào đây!ư Không nói nữa, như con trâu đã đóng lên tròng. A Phủ lẳng lặng ra vác chiếc cọc gỗ rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cọc xuống bên cột, Pá Tra đẩy A Phủ vào chân cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây cuốn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đâu lúc lắc được. àn bà trong nhà, mỗi khi đi qua đều cúi mặt. Không một ai dám hỏi. Cũng không một ai dám nhìn ngang mặt. ến đêm, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây, nhích dãn dây trói một bên ta. Nhưng trời cũng vừa sáng. Pá Tra quảng thêm một vòng tròng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa. A Sử và lĩnh dõng của thống lý đi đuổi, mấy ngày không lùng bắt được con hổ. Thì cũng mấy ngày A Phủ phải trói đứng góc nhà. ằng kia, bếp lò bung ngô cao ngang đầu người vẫn hừng hực đỏ rực. Môi hôm hai buổi, người ta ra người vào ăn uống tấp nập. A Phủ đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mỵ cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mỵ dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thường khi đến gà gáy, Mỵ dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, a Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng lúc ấy Mỵ cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết nó còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi. Mỵ vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mỵ chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về thấy Mỵ ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mỵ ngã xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mỵ trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Mỵ trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mỵ chợt nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người ta chết, chết đau, chết đối, chết rét, phải chết. Ta là thân phận đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ … Mỵ phảng phất nghĩ như vậy. ám than đã vạc hẳn lửa. Mỵ không thổi cũng không đứng lên. Mỵ nhớ lại đời mình. Mỵ tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mỵ đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải trói thay vào đấy. Mỵ chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mỵ cũng không thấy sợ… Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ biết có người bước lại… Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi như rắn thở, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt hoảng. Mỵ chỉ thì thào được một tiếng “i đi…” rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vung lên, chạy. Mỵ đứng lặng trong bóng tối. Trời tối lắm. Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc. Mỵ thở trong hơi gió thốc lạnh buốt – A Phủ cho… A Phủ chưa kịp nói, Mỵ lại vừa thở vừa nói – ở đây chết nất, A Phủ chợt hiểu. Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi. Hai người đi ròng rã hơn một tháng. Họ truyền trên những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. Từ Hồng Ngài xuống qua vùng ruộng ở Mường Quài của người thái, từ Nậm Cất sang Chống Chia, từ Chống Chia qua dốc Lùng Chùng Phủng lại trở về bờ sông à phía giữa châu Phù Yên sang châu Mai Sơn, chỗ đầu mối giao thông của ngoài vùng tự do vào khu du kích của các dân tộc Thái, Dao, Mèo bên kia sống. Rồi họ về trong những làng Mông ỏ hẻo lánh vùng Phìa Sa. Xa lắm rồi, thống lý không đuổi được nữa… họ nghĩ thế. Ròng rã, ăn rau rừng, củ nâu, mộc nhĩ, vừa hết mùa mưa, tới Phìn Sa. Hai người tới Phìn Sa, ở đấy không ai biết đấy là A Phủ, người ở nợ nhà thống lý. Người ta ngỡ đấy là hai vợ chồng trong một nhà đông anh em ở bên kia dốc Lùng Chùng Phủng, nương vỡ được ít mà miệng ăn thì nhiều, anh em, vợ chồng phải chia ra, đem nhau đi tìm ăn nơi khác. Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A Phủ và Mỵ đã thành vợ chồng.
So sánh nhân vật Mị và Thị qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt” Mị và Thị là những hình ảnh đại diện cho nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại xã hội xưa. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt”, chúng ta đã có thêm những góc nhìn sâu sắc về số phận của người phụ nữ cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn bị vùi lấp trước bi kịch cuộc đời. So sánh nhân vật Mị và Thị Mở bài Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa qua so sánh nhân vật Mị và ThịThân bài so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt từ số phận đến tính cáchSự tương đồng về nỗi đau bị đẩy đến bước đường cùng trong so sánh nhân vật Mị và ThịVẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi so sánh Mị và Thị Mở bài Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa qua so sánh nhân vật Mị và Thị Xuyên suốt nền văn học Việt, nét đẹp của người phụ nữ như một nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Từ cổ chí kim với hình ảnh nàng Kiều tài hoa cùng khát vọng sống mãnh liệt trước số phận bạc mệnh; đến một chị Dậu bị xã hội nửa phong kiến vùi dập đến túng quẫn giữa màn đêm không tìm thấy lối thoát. Số phận bi thảm đầy sự bất công, cay đắng tủi nhục ấy lại chẳng thể vùi lấp đi vẻ đẹp nơi tâm hồn ẩn chứa nơi trái tim họ. Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị và “Vợ nhặt” với nhân vật Thị cũng là những người phụ nữ với nét đẹp tâm hồn tài hoa, không đầu hàng trước số phận như vậy. Dù hoàn cảnh bi thương khác nhau nhưng giữa những tầm thường cuộc đời, vẻ đẹp của họ vẫn được Tô Hoài và Kim Lân khắc họa sâu sắc, để lại những rung cảm khó có thể phai mờ trong lòng độc giả. Sự tương đồng về nỗi đau bị đẩy đến bước đường cùng trong so sánh nhân vật Mị và Thị Khi so sánh nhân vật Mị và Thị, ta nhận ra đây đều là đại diện cho những người phụ nữ ở tầng lớp thấp của xã hội lúc bấy giờ. Tuy “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” nhưng cuộc đời của họ đều là một tấn bi kịch, thân phận thấp cổ bé họng, số phận “bèo dạt mây trôi”, túng quẫn vẫy vùng trong tuyệt vọng. Nhân vật Mị – một đóa hoa vùng Tây Bắc hội tụ được những nét đẹp tâm hồn của người miền núi Đẹp người, đẹp nết, cần cù, hiếu thảo và rất mực tài hoa. Ấy vậy mà đóa hoa tuyệt sắc đó lại phải gánh chịu kiếp sống giam cầm, trở thành một “cô con dâu gạt nợ”. Dưới sự áp bức đầy cường quyền thần quyền cùng hủ tục đè nặng, Mị gần như trở nên tê liệt. Cô trở nên mất sự phản kháng, trở nên con cam phận “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô là một con người bằng xương bằng thịt nhưng lại chẳng thể tự quyết định số phận của mình. Vì cha mà Mị chẳng thể đành lòng mà tự vẫn, vì A Sử mà cô không thể đi chơi trong đêm tình mùa xuân. Danh nghĩa là con dâu cả nhưng thật ra lại là nô lệ mãn đời cho ngôi nhà ấy. Sự cam chịu đến thống khổ đã biến cô gái Mông sức sống mơn mởn và trở thành một con người lầm lũi, túng quẫn, héo hắt. Tuổi xuân của Mị đã bị giam cầm như chính thân xác của Mị. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó rồi” Cuộc đời Mị vẻn vẹn chỉ còn thu lại bằng chiếc cửa sổ “mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Một xã hội hiện thân mà kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền hành còn những người thấp hơn bị coi như cỏ rác. Không phải là kiếp sống giam cầm, mất tự do như Mị nhưng Thị trong “Vợ nhặt” lại phải lâm vào hoàn cảnh lay lắt giữa sự sống và cái chết, vật vờ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Vì cái đói cái túng quẫn đeo bám, Thị trở thành một con người không còn gì cả. Không có tên, cũng chẳng có gốc gác, cô “gầy vêu rách như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” không quá khứ, mất luôn cả lòng tự trọng. “Thị gầy xọp” “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” chỉ nhìn đập vào mắt người đọc “hai con mắt trũng hoáy”. Tất cả các chi tiết đó không khiến chúng ta bàng hoàng và liên tưởng đến một bóng ma vật vờ không có sức sống. Thị trải qua cuộc sống lê la, nay đây mai đó, chỉ sống qua ngày chứ chẳng còn tha thiết đến ngày mai. Vì vậy, cô nhanh chóng víu lấy nhân vật Tràng mà nào có cần nghĩ suy. Cái đói không chỉ vùi lấp sức sống vẻ ngoài của thị mà còn tàn tạ cả tính cách. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi nói chuyện. Cái đói khiến thị quên đi cả lòng tự trọng của một con người. Thấy cái ăn trước mặt, thì chẳng ngần ngại mà “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị rơi vào bi kịch theo không người ta về làm vợ chỉ để có cái ăn. Hoàn cảnh xô đẩy đã khiến tất cả bị che lấp, chẳng còn lòng tự trọng và vẻ đẹp nơi tâm hồn nữa. Xã hội khiến một người con gái tàn lụi như một cái xác không hồn. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi so sánh Mị và Thị Cùng cực là thế, đớn đau là thế nhưng ẩn sâu bên trong họ, khát vọng sống vẫn luôn âm ỉ cháy. Dù tưởng chừng đã ở đáy vực của sự tuyệt vọng, nhưng cả Thị và Mị lại luôn khát khao được sống, được tự do là chính mình, sống một cuộc đời đúng nghĩa chứ không phải chỉ là tồn tại. Khát vọng sống được thể hiện qua những cách khác nhau khi ta so sánh nhân vật mị và thị. Ngòi bút hiện thực của Tô Hoài và Kim Lân phác họa sâu sắc nỗi đau cuộc đời họ, nhưng chẳng thể làm mờ đi sức sống mãnh liệt trong họ. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, âm ỉ cháy suốt mạch chuyện. Tựa như một cây cỏ dại, tuy mỏng manh, yếu ớt nhưng bền bỉ, quật cường. Lần thứ nhất, nó trỗi lên mạnh mẽ lúc Mị mới trở thành con dâu gạt nợ. Tủi cực, buồn bã dồn đọng, Mị định ăn lá ngón tự tử. Nàng ý thức được sự tự do, vận mệnh của bản thân mình đã bị tước đi và trao cho kẻ khác. Tìm đến cái chết lúc đó mặc dù theo nghĩa tiêu cực như là một cách chạy trốn, giải thoát Mị khỏi những ràng buộc và khổ đau. Nhưng đó có lẽ chính là cách phản kháng mạnh mẽ nhất Mị có thể làm được lúc bấy giờ, là sự khẳng định cho khát vọng sống tự do của Mị. Lần thứ hai, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi nhen nhóm cháy khi tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình mỗi mùa xuân đến. Mị nhớ da diết những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ. Từ tâm trạng, Mị chuyển thành hành động Mị uống rượu. Mị lấy rượu uống “ừng ực từng bát một”, tưởng như uống những khao khao trong lòng, quên đi những căm hận, buồn khổ. Tác động cảm xúc và men rượu đã khiên Mị thoát khỏi sự vô cảm bấy lâu. “Phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, “Thắp sáng niềm tin, giã từ bóng tối” “trong lòng đột nhiên vui sướng! Mị trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Thậm chí khi A Sử thản nhiên chà đạp ước mơ của Mị, trói nàng vào cột. Trong căn phòng tối như hũ nút, khát khao đó vẫn cháy “như không đang biết mình đang sợ bị trói, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Nỗi đau thể xác đã chẳng thể nào đè bẹp khát khao ấy. Tất cả những nhân tố ấy như nhen nhóm từng chút, từng chút một, để rồi khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, sức sống ấy đã bùng cháy quyết liệt, mạnh mẽ. Chính niềm đồng cảm giữa những con người cùng túng khổ đã lấn át tất cả, trong phút chốc làm tan biết cả nỗi sợ và cái chết rình rập, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động cởi trói cho A Phủ hay cũng chính là Mị cởi trói cho cuộc đời mình. Mị đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết, giữa lựa chọn nhẫn nhịn và khao khát được sống một cuộc đời đúng nghĩa của một con người. Và niềm khát khao sống đã chiến thắng. Mị đã chọn kết thúc những thống khổ trong lòng, chọn kết thúc quãng đời đày ải, tối tăm trước đây để học cách bắt đầu một cuộc đời mới. Khi so sánh nhân vật mị và thị, ta thấy rất nhiều điểm tương đồng. Phía sau tình cảnh vất vưởng, nhân vật Thị vẫn âm ỉ khát vọng sống mãnh liệt. Thị sẵn sàng đồng ý theo Tràng làm vợ cũng chỉ là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Dù là đánh mất tôn nghiêm, tự trọng, nhưng đó là tất cả nỗ lực khát khao để có được miếng ăn, để được sống. Dẫu có rẻ mạt và tầm thường, chỉ với bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con là bán rẻ bản thân, nhưng để tồn tại thì còn ý chí nào mạnh mẽ, quật cường hơn thế? Thị nào có biết Tràng là người như thế nào? Xấu tốt ra sao? Thi đánh đổi cả đời mình vào một canh bạc. Lúc thị về đến nhà Tràng, chứng kiến “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, cô nàng bèn “nén một tiếng thở dài”. Tưởng chừng trong tiếng thở dài chỉ có sự ngao ngán, thất vọng, ấy thế nó còn chứa đựng bao lo lắng cho tương lai ngày mai. Mị trở nên trách nhiệm với mái ấm nhỏ của mình, Mị bắt đầu mơ, bắt đầu tin vào một cái kết lạc quan ở phía trước. Mà trên đời này có hy vọng nào mà chẳng đi cùng sợ hãi. À thì ra, dẫu Thị có thể hiện bao nhiêu chua chát, đanh đá, nàng vẫn là một người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, biết lo toan, chăm chút cho mái ấm của mình. Không chỉ thế, thị còn thể hiện bao nhiêu nét đẹp gia giáo khi gặp bà cụ Tứ. Nàng trở nên e thẹn, dè dặt, chỉ dám “ngồi mớm” vào mép giường, hơn nữa còn rất ý tứ, cung kính trong chào hỏi với mẹ chồng. Đến Tràng cũng bất ngờ và “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Phải chăng tình thương giữa người với người thật sự có sức mạnh diệu kỳ cảm hóa con người thị? Trong bữa cơm, dẫu chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, nhưng Thị lại chẳng hề khó chịu, so đo. Nàng đã mang hơi ấm gia đình đến cho ngôi nhà, sưởi ấm tâm hồn của một Tràng cục mịch, sưởi ấm cả khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Dẫu là những nhân duyên chắp vá và chẳng thể nào hoàn mỹ, nhưng tất cả những nỗ lực để sống, để tồn tại của Thị giúp thay đổi và tiếp thêm lửa cho gia đình nhỏ này. Kết bài so sánh nhân vật Mị và Thị thông qua hai tác phẩm So sánh nhân vật Mị và Thị, dù hoàn cảnh khác nhau, nỗi bi ai thống khổ khác nhau nhưng vẻ đẹp ẩn chứa bên trong trái tim người phụ nữ đều sáng lấp lánh. Một người con gái kiên cường phá bỏ xiềng xích giam hãm mất tự do để sống một cuộc đời mới hay một người vợ vứt đi cái tôi để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tất cả đều thể hiện nội lực sinh tồn mạnh mẽ không gì dập tắt được. So sánh nhân vật mị và thị ta nhận ra Kim Lân và Tô Hoài đã tài tình khắc họa chân dung người phụ nữ trong xã hội mới với những phẩm chất tốt đẹp. Đó cũng chính là lời kêu gọi của cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo luôn tồn tại và cháy trong tim mỗi người phụ nữ Việt suốt hàng ngàn năm qua.
mị và a phủ