Bài thơ "Việt Nam quê hương ta" của Nguyễn Đình Thi được đưa vào sách giáo khoa và giảng dạy ở nhiều cấp học, trong nhiều thập niên từ giữa thế kỷ XX đến bây giờ; nhưng chỉ là phần trích của bài thơ, trước đây lấy tên là "Bài thơ Hắc Hải". Nhân dịp 70 năm ngày thành lập nước, ngày Quốc khánh Tham gia hội thi lần này, mỗi đội phải trải qua 3 phần thi gồm: Màn chào hỏi, tài năng và tìm hiểu kiến thức, trong phần thi tìm hiểu kiến thức có hai phần trả lời câu hỏi hiểu biết về thân thế sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm truyện kiều và phần thuyết trình về quê hương Nghi Xuân. Hồi hương 39 thi thể Việt từ Anh: Chính phủ cho vay, gia đình thêm nợ. Nguyễn Văn Hùng, một trong những nạn nhân vụ 39 người Việt chết trong thùng xe tải đông lạnh ở Anh hồi tháng trước, trong một bức ảnh trên điện thoại do bố anh, Nguyễn Thanh Lễ cho xem tại cư gia ở khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' đã được định nghĩa một cách rõ ràng, đầy đủ trong văn kiện đại hội xi của đảng cộng sản việt nam: ''nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của … (ĐCSVN) - Cuộc thi được tổ chức theo hình thức trắc nghiệm trực tuyến hằng tuần trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, mạng xã hội VCNet và các báo/tạp chí điện tử, trang/cổng thông tin điện tử của các cơ quan, đơn vị, địa phương dẫn đường link liên kết với Cuộc thi. Đường link Cuộc thi: atgt Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Excellent2Very good5Average0Poor2Terrible0FamiliesCouplesSoloBusinessFriendsMar-MayJun-AugSep-NovDec-FebAll languagesEnglish 9Japanese 9French 2More languages See what travellers are sayingSort by Detailed Reviews Reviews order informed by descriptiveness of user-identified themes such as cleanliness, atmosphere, general tips and location September 9, 2017 Very limited choice for vegetarians two meals on the menu but they only had one, which wasn't bad at least. Fresh juices had a lot of ice in them and very little juice. Food was very cheap. Service was fast and good but there were...way too many waiters. They had nothing to do and observed us while we were Date of visit February 2017Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn September 18, 2016 This restaurant have 2 great meat char xiu and roast meat. The 1st time i have eaten tasty char xiu, the best before until now. Rice cooked with coconut and soup have been delicious also. I will back here next time!Date of visit September 2016Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn July 19, 2016 via mobile I have dinner here whenever I visit HCM. Very good local foods at reasonable prices. Both suitable for family and friends dinner of visit July 2016Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn June 27, 2016 via mobile Was hoping that we'd get some nice local-style food at reasonable prices, but the specialities were all absurdly expensive, and the banh cuon and pork plates were mediocre at best. Plenty of wait staff around, but not many of them interested in actually of visit June 2016Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn May 22, 2016 I have been coming here for years for both take out and dine in experience. Originally a street side Haianese Chicken Rice shop, the place went through massive renovations many years ago including the installation of an elevator! just in time to reopen for the...Chicken Flu scare of 2004. The canny owner broadened the menu and now you can get fish, nem nuong an currie. The rice can be wither plain or cooked with chicken fat. Recently they have a new machine so the chicken rice can be ordinary or have an outside crust of crispy rice. My favorite is the crispy chicken rice with an assortment of meats chicken, duck, pork, etc.. For soup try the 'Salad Song' watercress soup with prawns. Iced tea is good. In all these years I have never been sick from this place and will happily take business people there for a quick lunch in between working meetings. Go upstairs for aircon. Quality is good, however it is a bit expensive by Vietnamese standards at about VND120,000 per of visit May 2016Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn October 24, 2015 Guys, get the lamb curry and leap all the sauce with the bread. Ask for spicy if you can take it. Dont come after 7 pm, good chance they will run out of of visit October 2015Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn March 30, 2015 via mobile Recommend travelers who want to have traditional Vietnamese dish. Chicken rice is my favorite, especially. Please be advised that in lunch time it will be very busy, so if you wanna have a lunch, may be better to go around 1130 AM or after 13 review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn August 31, 2014 via mobile We picked this place at random during lunch break at the War Museum. Level one is open to the air, level two is sealed with air con. We had a couple of varieties of rice paper rolls which were very good. The signature dish seems...to be curry with baguette, or roll-ups of various things in lettuce. The locals eating there were very enthusiastic about their lunch, so we went in and it was very Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn January 5, 2014 Arriving half an hour before the War Remnants Museum was due to close for lunch, we wandered around it, then looked for somewhere close by to have lunch before returning. We stumbled across Nhà hàng THƯỢNG HẢI which was just a few minutes walk away,...and recommended by the person in the fancy bakery opposite. We walked up some stairs and sat looking out onto the road watching the world go by which was great. We were the only Westerners in the restaurant which was exciting, especially for our first day. We chose a selection of dishes from the extensive menu not the frog curry! and all were really good and reasonably priced. Note They serve a warm beer but with a glass of ice. Don't be put off by my photograph of just a few dishes from the extensive menu. Highly Date of visit November 2013Helpful?This review is the subjective opinion of a Tripadvisor member and not of Tripadvisor LLC. Tripadvisor performs checks on reviews as part of our industry-leading trust & safety standards. Read our transparency report to learn more reviews TT - Cũng như các triều đại trước, hệ thống thi cử dưới thời Nguyễn gồm có ba kỳ thi hương, thi hội và thi đình. Thi hương là kỳ thi ở địa phương, gồm một số tỉnh thi chung một trường, nhằm mục đích kén chọn người tài để vào dự thi hội và thi đình. Các trường miền Bắc thi hương khoảng tháng 10, miền Trung và Nam khoảng tháng 3 đến tháng 7. Kỳ 1 Sĩ tử thời xưaNội dung chính Show TT - Cũng như các triều đại trước, hệ thống thi cử dưới thời Nguyễn gồm có ba kỳ thi hương, thi hội và thi đình. Thi hương là kỳ thi ở địa phương, gồm một số tỉnh thi chung một trường, nhằm mục đích kén chọn người tài để vào dự thi hội và thi đình. Các trường miền Bắc thi hương khoảng tháng 10, miền Trung và Nam khoảng tháng 3 đến tháng ReadingKhoa cử xưaThi Hương,Thi Hội,Thi ĐìnhVideo liên quan Phóng toQuang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý 1912 với chòi canh và lều chõng của thí sinh - Ảnh tư liệuThi từ sáng sớm đến tối mịt Trống điểm canh tư chừng 1g sáng thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên, đến khoảng canh năm tám khắc khoảng 5g sáng thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân 3-5 giờ chiều thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một tức 19g. Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo... và thức ăn dùng trong một ngày. Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi tức giấy làm bài thi đóng thành quyển, phải giữ gìn hết sức sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu. Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ mặt thì xong để chuẩn bị làm bài thi. Tứ trường và thiên kinh vạn quyển Theo Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, thi hương có khi thi ba vòng người xưa gọi tam trường có khi thi bốn vòng tứ trường. Vòng một thi kinh nghĩa tức các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo, vòng hai thi chiếu biểu tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ, dụ..., vòng ba thi thơ phú sáng tác theo chủ đề của đề thi, vòng bốn thi văn sách tương tự như thi tự luận. Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ với thí sinh, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài thi. Dễ làm và khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay, vì cái hay nó vô cùng. Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, không những phải làu thông kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ. Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực thiên văn, địa lý, bói toán, y học...; đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi thí sinh phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế! Mang tài liệu vào trường thi gông cổ, đánh 100 roi Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” là dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi...; cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn. Các quy định đó xem ra cũng không khác gì bây giờ, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì rất nghiêm khắc. Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì không những thí sinh bị trị tội mà còn truy tội cả các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương. Trong bài thi lại có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị không biết tránh chữ húy. Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình, đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua... Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài nâng cao lên trong dòng chữ. Nếu không là mắc lỗi khiếm đài. Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh rớt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ xóa bỏ, di sót, câu móc, cải sửa quá 10 chữ. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi. Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường thi hương thì được học vị tú tài. Những thí sinh vượt qua được cả bốn trường thì được học vị cử nhân, được ban cấp áo mão, ban yến đãi tiệc, rồi vinh quy bái tổ. Tiếp tục cuộc đua tiến sĩ Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi sang năm vào kinh đô dự kỳ thi hội, cùng với những cử nhân của các khoa trước đó, những thí sinh đã vượt qua một kỳ khảo hạch đặc biệt do triều đình, và một số ít quan lại muốn có học vị cao hơn. Cách thức làm bài và trường quy thi hội không khác mấy với thi hương, chỉ khác là phạm quy thì bị tội nặng hơn. Thi hội không có truyền lô xướng danh nhưng lễ yết bảng công bố kết quả rất long trọng. Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách. Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi đình, tổ chức trong cung đình, do đích thân nhà vua ra đề và là người chấm thi cuối cùng. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách hẳn hoi. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ. Sau khi vua chấm bài thì học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, được thăm hoa ở vườn ngự uyển, được cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi. Hệ thống học vị dưới triều Nguyễn 1. Thi hương đỗ tam trường ba vòng đầu, đạt học vị tú tài; đỗ tứ trường hương cống về sau gọi là cử nhân; đỗ thủ khoa giải nguyên. 2. Thi hội đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi đình; đỗ bảng thứ là thứ trúng cách, được học vị phó bảng; đỗ thủ khoa hội nguyên. 3. Thi đình đỗ thi đình đạt học vị chung là tiến sĩ; đỗ thủ khoa đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8-10 điểm được xếp bậc đệ nhất giáp. 10 điểm được lấy đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh, thường gọi là trạng nguyên. 9 điểm đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn. 8 điểm đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa. - 21 lần đi thi, đến năm 82 tuổi mới đậu cử nhân. Đó là thí sinh đặc biệt nhất trong lịch sử thi cử Việt Nam. Kỳ tới21 lần thi, 82 tuổi mới đậu Continue ReadingPrevious Quốc hiệu Đại Cồ Việt có ý nghĩa gì? Tại sao đặt tên nước là Đại Cồ Việt? Khoa cử xưaThi Hương,Thi Hội,Thi Đình Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây KB, 6 trang KHOA CỬ THỜI XƯATHI HƯƠNG, THI HỘI,THI đến chế độ khoa cử ở nước ta thì phải tính đến một chặngđường dài mười thế kỉ đã diễn ra dưới thời phong kiến mà khoa mở đầu lànăm Ất Mão1075 đời Lí và khoa kết thúc vào năm Kỉ Mùi1919 đờiNguyễn Khải thể lệ thi buổi đầu chưa ổn định, ở thời nhà Lí khoảng cách giữacác khoa thi thường là 12 khoa thi Kỉ Hợi1239đời Trần TháiTông, lệ thi mới được định hẳn 7 năm một kì. Sang nhà Lê đời Thái Tôngcho đổi lại 3 năm một kì. Lệ thi được chấp nhận suốt cả một thờikì HậuLê cho tới cuối thời nhà cử thời phong kiến gồm có ba kì thi quan trọng bậc nhất đượccoi như ba cửa ải lớn để bước tới các bậc thang quan chức đầy danh vọngcủa các nho sĩ. Đó là thi Hương Hương thí, thi HộiHội thí và thiĐìnhĐình thí. HƯƠNG trình học tập và điều kiện dự thiỞ nước ta khi xưa học trò bắt đầu đi học gọi là sơ học; học các sáchSơ học vấn tânhỏi bến, Tam tự kinhKinh ba tiếng, Tứ tự kinhKinhbốn tiếng, Ngũ ngônVăn vần năm tiếng.Tập làm văn khi đầu là câu đối2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng…biết phân biệt vần trắc, vần đức dụchọc sinh phải lễ phép kính trên, nhường dưới, thực hiện câu “Tiên học lễ,hậu học văn”.Chừng 10 tuổi trở lên học Tứ thư, Ngũ kinh, học lịch sử TrungQuốc, học Bách gia, Chư tử, Cửu lưuChín dòng tư tưởng Cổ đại TrungQuốcNho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia,Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia.;học lịch sử Việt Nam từ thời HồngBàng, tập làm văn, làm câu đối 7 tiếng gọi là câu đối thơ,8 tiếng trở lên làcâu đối phú và tập làm văn thức trường làng phần lớn là trường tưtư thục. Thầy giáotrường làng được mệnh danh là thầy đồ. Thầy đồ do dân tự gồmnhững người hỏng thi, hoặc thi đỗ mà không muốn ra làm quan, người đãnghỉ việc..Nhà nước không đài thọ trường làng mà chỉ mở trường từ cấphuyện, phủ và tỉnh. Quan quản lí giáo dục ở huyện gọi là huấn đạo, ở phủgọi là giáo thụ, còn danh hiệu đốc học là quan cấp đầu của nhà Hậu Lê năm 1428, Lê Lợi xuống chiếu cho thiênhạ mở trường đào tạo nhân tài. Ở kinh đô có Quốc tử giám, ở địa phươngthì có các phủ học, huyện học. Nhà vua tự mình lựa chọn những ngườituấn tú cho vào tại các trường ở kinh đô. Nhà vua ra lệnh cho các quangiáo thụ, huấn đạo chọn rộng rãi con em người lương thiện cho vào họccác trường phủ, thời Lê Trung Hưng, học sinh trường huyện mỗi kì học phảinộp 5 tiền mạch gọi là tiền minh kinh. Loại trường này chỉ dành riêng chohọc sinh đã có kiến thức năm nhà trường đều tổ chức cho họcsinh thi chất lượng vào tháng tư âm lịch gọi là khảo khóa. Khảo khóa gồm3 kì, ai đậu cả 3kì gọi là khóa sinh. Để chuẩn bị cho các kì thi hương cácanh khóa này được miễn phu phen tạp dịch một năm và họ phải dự kì thitiến ích vào tháng 11 âm lịch, nhằm kiểm tra sự tiến bộ của họ trước khibước vào kì thi hương năm sau. Trước kì thi hương độ 4 tháng, các anhkhóa lại phải vượt qua một kì thi sát hạch nữa. Thể lệ thi sát hạch phải doquan đốc ở tỉnh duyệt. Ai không đủ điểm ở kì thi này, sẽ không được thihương. Tới kì thi hương nếu thực tế chất lượng học sinh khác với chấtlượng khảo hạch, thí sinh không làm nổi bài, thậm chí bỏ giấy trắng thìcác quan kiểm tra bị trừng phạt. Nếu có từ 5 thí sinh không đạt yêu cầutrở lên thì bị cách chức. Giáo thụ, huấn đạo có thể bị giáng mấy của những người dự thi kì thi hương phải có giấy chứng thực lí lịchcủa địa phương và gửi về bộ Lễ trước kì thi một tháng. Bọn lưu manh,côn đồ tuyệt nhiên không được ghi vào danh sách này hồi xưa gọilà Bảo thời cuối Lê những người còn ở trong quân tịch không được dựthi, con em phường chèo, phường hát cũng không được dự thi;triều đìnhnhà Nguyễn còn qui định những học sinh đang chịu tang bố và ông nộicũng không được dự điểm và nội dung của cuộc thiThi hương là kì thi của một tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thihội và thi Lê người ta thấy có 9 trường thiHải Dương, Sơn Nam, TamGiang, Kinh Bắc, An Bang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ AN vàThuận thời Nguyễn có 7 trường Nghệ An, Thanh Hóagồm cả NinhBình;Kinh Bắc Bắc Ninh, Bắc Giang;Thái Nguyêngồm cả Cao Bằng,Lạng Sơn;Hải Dươnggồm cả Quảng Yên;Sơn Tâygồm cả HƯng Hóavà phủ Hoài Đức;Sơn Sơn Nam đặt tại làng Hiên Nam nêncó tên gọi là trường Hiên 1813, Gia Long choi đặt thêm 2 trườngQuảng Đức gồmThừaThiên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định,PhúYên, Khánh Hòa, Gia Định… và Thăng Long Hà Nội gộp thêm cảtrường Kinh Bắc, Sơn Tây,Thái Nguyên và Tuyên năm 1825sau khi có tỉnh Nam Định, trường Vị Hoàngtức Sơn Nam cũ được gọi làtrường Nam năm 1831,Minh Mệnh lại cho định lại 2 trường thi ở Bắc kì1. Trường Hà Nội gồm 10 tỉnhHà Nội, Sơn Tây, BắcNinh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, HưngHóa, Ninh Bình ,Thanh Trường Nam Định gồm 4 tỉnh Nam Định, Hưng Yên,Hải Dương, Quảng người thi đỗ trong các kì thi hương chia làm hai loại Loạimột có các danh hiệu Cống cử, Cống sing, Cống sĩ, Hương tiến, Hươngcống. Những ông cử này sẽ được dự kì thi hội. Loại hai gọi là sinh đồkhông được thi đỗ đầu kì thi hương được gọi là giải nguyênhoặc đầu đời Minh Mệnh1820-1840 đổi các danh hiệu Cống sĩ,Hương tiến thành cử nhân và sinh đồ thành tú tài. Người nào đỗ tú tàihai khoa thì gọi là tú kép, ba khoa thì gọi là tú mền gọi tắt là ông mền,bốn khoa thì gọi là tú đụp gọi tắt là ông dung các kì thi Hương được qui định từ thời Lê Thánh Tôngnhư sau-Kì 1bài thi gồm 5 đề về tứ thư, ngũ kinh-Kì 2bài thi hỏi về chiếu, chế, biểu. Mỗi loại một bài viết theo lốicổ xưa gọi là thể văn tứ lục,hay là văn biền xuôi cóhai vế, vế 6 tiếng, vế 4 tiếng đối 3làm một bài thơ và một bài phú. Thơ làm thể Đường luật, thấtngôn bát cú; phú cũng làm theo cổ thể còn gọi là Tao uyển qui định từ300 tiếng trở 4làm một bài văn gọi là văn sách, đề tài rút ra từ các kinh sử,tử, tập hỏi vềthế vụý thức về việc giúp nước, cứu đời đòi hỏi phải viếtđược 1000 tiếng trở lấy đỗ với tỉ lệ Cống sĩ 1, Sinh đồ dụ năm 1708 ngạchđỗ ở trường Sơn Nam 880 người trong đó Cống sĩ 80 và Sinh đồ năm 1774 gia ngạch cho trường Sơn Nam lây1100 người đỗ. Cống sĩchỉ có 100 còn lại là Sinh HỘI VÀ THI ĐÌNH kiện, nội dung của thi Hội và thi ĐìnhĐây là cửa ải thứ hai đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang. Đâycũng là cuộc kiểm tra, đánh giá cao nhất đối với các bậc tài năng của vậy thi hội và thi đình được mệnh danh là đại tịthi lớn. Cuộcthi lớn này người xưa quen gọi là đại khoa. Đại khoa gồm hai giai đoạnthi hội và thi hội cũng có 4 kì, người đỗ cả 4 kì sẽ được cấp bằngtiền sĩ. Thi đình còn gọi là điện thí, tức là thi tại triều đình nhà vua. Vuatrực tiếp hỏi bài. Thi đình chỉ để xếp loại các tiến sĩ đã đỗ ở kì thi hội màthôi. Ở thời Lê có một số khoa, vì hoàn cảnh loạn lạc nên không tổ chứcthi đình nhưng vẫn phân loại tiến hội là kì thi quốc gia dành cho những người đã kinh qua thihương và đã có bằng cử nhân và các giám sinh đã mãn khóa ở Quốc người đỗ đạt trong các kì đại khoanhư thế này đều có danhhiệudành cho họ tùy thuộc vào các thời kì khác nhau trong lịch sửTháihọc sinh, Tiến sĩ.Ngoài các khoa thi thường lệ triều đình còn mở các khoa thi độtxuất. Các khoa đặc biệt như thế gọi là Ân học sinh xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn1232 đời Trần TháiTông cho đến khoa thi Canh Thìn1400 đời Hồ Quý sĩ bắt đầu có từ khoa thi Nhâm Tuất1442 dời Lê Thái Tôngcho tới khoa thi kết thúc lịch sử khoa cử Nho giáo ở nước ta vào năm KỉMùi 1919 đời Nguyễn Khải sĩ chia làm 6 bậc Thám Hoa.=>Thuộc đệ nhất giáp người đời mệnh danh là tam khôi, có thờigọi là tiến sĩ cập giáp thuộc đệ nhị giápchính bảng, cũng có thời gọi làtiến sĩ xuất Tiến sĩ thuộc đệ tam giáp, gọi là đồng tiến sĩ xuất bảng là sản phẩm khoa cử thời Nguyễn mà bắt đầu xuất hiệntừ khoa thi Kỉ Sửu1829 đời Minh Mệnh. Giữa tiến sĩ và phó bảng đượcqui định về tỉ lệ và ngạch dụ ở khoa thi 1843 đời Thiệu Trị có 25người đỗ, thì chỉ cho 10 người đỗ tiến sĩ, còn 15 phó bảng. Nếu tính 30khoa thi ở Huế 1822-1892 lấy đỗ 560 người thì có 229 tiến sĩ, số cònlại là phó hội và thi đình cả hai kì thi này diễn ra trong vòng khoảng 8tháng mùa xuân thi hội đến mùa thu năm ấy thì thi đình. Còn phép thi hộicũng có 4 kì như thi hương. Kí thứ nhất cho thí sinh làm kinh nghĩa vàkinh truyện mỗi thứ một bài, mỗi bài khoảng 1000 tiếng. Ở kì thứ tư, bàivăn sách qui định tối thiểu 1600 khoa thi nhà Hồ năm 1405lại cho thi thêm kì thứ 5 hỏi về là nét đặc sắc của khoa cử nướcta. Theo sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn, vào năm 1721, triềuđình ra lệnh phải qui định mức điểm cho mỗi kì 1 thí sinh phải đạt8 điểm trên 10 trở lên. Kì 2 phải đạt từ 7 điểm trở lên,kì 3, kì 4 phải đạt từ5 điểm trở tắc chung là mỗi kì thi phải qua hai lần chấm sơkhảo và phúc khảo, đủ điểm thi kì thứ nhất mới được thi kì thứ hai, rồi kìthứ ba, thứ tư cũng áp dụng theo luật đó. Người đỗ được xếp vào hai loạiđỗ chính bảng và đỗ phó bảng. Người đỗ chính bảng được vào thi đình vàđược hưởng quyền vinh quy bái thức tổ chức thi hội và thi đìnhMột số khoa thi buổi đầuthí sinh còn ít ỏi được tổ chức ngay ởtrường Quốc tử giám. Cón về sau giống như thi hương, mỗi lần thi là mộtlần làm làm bằng tre lợp tranh,rào dậu xung quanh bằngnứa. Trường chia làm 3 khu vực Khu nội liêm dùng cho khảo quan ở,khu ngoại biên là nơi ở của các quan giám thị và khu vực dành cho thísinh .Cả trường thi chia làm 8 ô vuông, có một con đường chạy dọc vàcon đường chạy ngang ở chính giữa để chia 8 ô thành 4 phần bằng nhaugọi là đường thập đạo. Giữa trung tâm đường thập đạo, người ta dựngmột ngôi nhà gọi là nhà thập nhà thập đạo trông ra phía trước cómột thông ra ngoài gọi là cửa tiền. Trẹn đường thập đạo theo hàng ngangngười ta dững 3 chòi canh một cái ngay chính giữa và hai cái hai bên đểquan giám thị quan sát thí sinh làm ngoài là háng rào 4 mặt vây kín. Để đảm bảo an toàn cho cuộcthi, triều đình còn sai lính cưỡi ngựa qua lại canh cuộc thi tiến hành có các quan trông coi giám sát gọi là sách nước ta không thấy ghi chép nhiều về quan trường thuộc batriều đại Lí, Trần, Hồ. Nhưng từ thời Lê về sau chức danh quan trườngcủa các khao thi được ghi chép đầy đủ ở bia tiến sĩ văn miếu mà nay tacòn đọc thấy gồm Chánh chủ khảo, phó chủ khảo, một tri cống cử,sáuviên khảo quan đồng khảo,hai viên chánh phó đề điệu, hai viên giámđằng lục. Luật thi hội không chấm trực tiếp bài làm của thí sinh, mà doquan giám đằng lục ở lại phòng, sao chép rõ ràng rồi đưa bản sao đichấm. Trước khi đưa bài đi chấm hai viên giám đằng, một người đọc, một Theo sách “Khoa mục chí” trong bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học Phan Huy Chú, đến năm 1721, tức năm Bảo Thái thứ 2 đời vua Lê Dụ Tông, nhà Lê trung hưng mới định phép khảo hạch thi đó, ở kì thi Hương, cho các quan huyện khảo hạch học trò, chọn lấy những người giỏi đưa lên Phủ doãn hay hai ty ty Thừa chính và ty Hiến sát khảo kỹ lại, rồi đánh giá học trò chia ra thành hạng “sảo thông” khá thông kiến thức và “thứ thông” thông vừa.Bộ sử “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” cho biết thêm về thể lệ thi này Mỗi năm, có hai kỳ thi khảo. Người nào trúng 8 kỳ thi khảo, nếu là sinh đồ sẽ được miễn các kỳ thi khảo hằng năm, nếu là đồng sinh sẽ được đi thi hạn định số sĩ tử được cử đi thi Hương thì huyện lớn được 200 người, huyện vừa 150 người, huyện nhỏ 100 người. “Cương mục” giải thích thêm về cách thi “Trước hết do viên huyện phúc khảo, chọn lấy người trội nhất gọi là “toát vưu”, sau do viên phủ và hai ty Thừa chính Hiến sát phúc khảo lại để định từng hạng Người nào nghĩa lý về văn bài có phần trội hơn gọi là hạng “sảo thông”, người nào có phần kém một chút gọi là hạng “thứ thông”.“Khoa mục chí” bổ sung về việc khảo hạch này “Được cùng kêu tị nhau để định ưu liệt”, tức là các sĩ tử cũng được tiếp tục thi đua với nhau để định ra hạng “ưu” và hạng “liệt”. “Cương mục” thì giải thích Sau khi đã chia từng hạng rồi, nếu có người nào chưa vừa ý, được phép tự mình khiếu tố so sánh, để ấn định người hơn, người vẽ cảnh trường thi xưa. Ảnh minh “Lịch triều tạp kỷ” của Ngô Cao Lãng, cũng năm này, nhà Lê quy định luôn cách chấm thi Hội. Vì trước đó trong các khoa thi Hội, cứ tùy vào từng kỳ mà lấy vào hay đánh hỏng nhiều ít khác nhau, chứ không có quy chế nhất định. Đến năm này, chúa Trịnh Cương có ý muốn rộng cầu hiền tài, lo rằng quan trường cứ tùy ý mình mà lấy hay bỏ, đến nỗi có sự sơ suất, nên đặc biệt ra lệnh định rõ “phân số” lấy vào hay loại bỏ trong hai kỳ kỳ đệ nhất và đệ nhị, còn số lấy trúng hay đánh hỏng ở kỳ thứ ba phải xin lệnh chúa quyết quy định chấm theo “phân số”, thì bài thi chia ra các hạng hơn kém, như hạng “ưu” có ưu to và ưu nhỏ, hạng “bình” có bình to và bình nhỏ, hạng “thứ”, có các loại thứ mác, thứ cộc, thứ tép và thứ muỗi, rồi đến hạng “liệt”. Các điểm chấm ấy gọi là “phân số”, như ngày nay ta chấm điểm từ 1 điểm đến 10 theo “Khoa mục chí” thì sang năm 1726, vua Lê và chúa Trịnh tiếp tục định cách chấm quyển thi Hội. Theo đó, các quan trường xét quyển thi, hội đồng để chấm, một người đọc, một người nghe, xét cho thỏa đáng, rồi quyết định lấy đỗ hay đánh hỏng chi tiết này không có trong bộ “Cương mục”.Đời Lê đế Duy Phường, năm 1732, triều Lê lại thi hành lệ khảo hạch thi Hương cũ. Theo thể lệ khảo hạch các khoa trước kia, thì các nho sinh và sĩ tử đều lệ theo huyện để thi, người có tài văn chương thì lệ theo quan phụ trách việc giáo dục ở phủ huyện gọi là hiệu quan mà đầu niên hiệu Bảo Thái đời vua Lê Dụ Tông đổi sang cho quan phủ giữ việc khảo hạch, huyện quan và hiệu quan hội đồng để chấm. Do việc ít, người nhiều, dần dần sinh ra những gian tệ. Do đó, đến năm này, vì dư luận xôn xao nên triều đình cho quay về phép khảo thi Hương lại được thay đổi dưới thời vua Lê Hiển Tông, và quay lại như cũ. Vì đầu thời Lê trung hưng, thi Hương ở tỉnh có lệ xã “khảo”, tùy xã lớn, xã trung, xã nhỏ, khai tên học trò đưa lên huyện, huyện quan chọn lấy những người thông văn lý, xã lớn 20 người, xã trung 15 người, xã nhỏ 10 người, gọi là tứ quyển thi trường nhất, nhì, ba cùng với quyển thi của nho sinh và sinh đồ đưa đi khảo một thể, và ai làm đủ quyển đều lấy đỗ. Lúc này hạng trung gian đổi làm hạng sảo thông. Cách chấm này khiến nhiều nhiều học trò giỏi lại bị hỏng. Do đó, triều đình bàn định thi hành lại lệ cũ, nhờ đó học trò dẫu là con nhà gia thế cũng không có kẻ đỗ Huy Chú đánh giá nhờ đó “Người thực tài đều không bị bỏ sót, mọi người đều cho là tiện”. Thi Hương Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thi Hương là một khóa thi cử về nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng ở các địa phương. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính. Kỳ thi Hương là kỳ thi sơ khởi nhất. Sau khi đỗ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi cao cấp hơn là thi Hội cao hơn nữa là thi Đình. Đỗ đầu kỳ thi Hương gọi là giải nguyên. Thi Hương được tổ chức tại các trường ở nhiều địa phương. Việt Nam Thể lệ Một người muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện gọi là Khảo hạch Phải có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải được xã trưởng và quan địa phương xác nhận. Phải có trình độ học lực trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng một kỳ thi liền với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4 kỳ trên. Đây là kỳ thi ám tả cổ văn; ai đỗ kỳ này mới được vào thi Hương. Vì đây là kỳ thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính, nên đỗ kỳ này chẳng có học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi, ai đỗ kỳ này cũng đã vinh dự lắm, nhất là đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được tặng danh hiệu “đầu xứ” về sau đỗ đầu tỉnh cũng được gọi là đầu xứ gọi tắt là “ông xứ” như xứ Nhu Nguyễn Khắc Nhu, xứ Tố Ngô Tất Tố. Ông xứ Tố chỉ đỗ đầu xứ thôi, chẳng có học vị gì, nhưng thật là một nhà Nho uyên thâm.[2] Theo quy định từ năm 1434, thi Hương tương tự như thi Hội cũng có 4 kỳ hay còn gọi là 4 trường. Kỳ I thi kinh nghĩa, thư nghĩa giải thích ý nghĩa trong câu lấy từ Tứ thư, Ngũ kinh. Bài thi phải viết theo lối biền văn – tức là có đối mà không cần vần, phần thi này nhằm kiểm tra khả năng hiểu biết kinh truyện của sĩ tử; Kỳ II thi chiếu, chế, biểu chiếu – lời vua nói, chế – vua phong thưởng cho công thần, biểu – bài văn thần dân tạ ơn vua hoặc chúc mừng vua nhân dịp ngày lễ. Sĩ tử phải biết lựa từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà dùng giọng văn cho thích hợp. Đây là bài thi kiểm tra khả năng soạn văn bản làm quan sau này; Kỳ III thi thơ phú các bài thi được làm theo thể thất ngôn, phần thi này kiểm tra khả năng làm thơ của sĩ tử bởi đây là một trong những sinh hoạt quan trọng của tầng lớp trí thức; Kỳ IV thi văn sách là bài văn trả lời câu hỏi về một vấn đề của đề bài. Phần thi nằm kiểm tra khả năng biện bác, bàn luận vấn đề lịch sử và hiện tại của sĩ tử. Tùy từng triều đại mà nội dung thi có thể quy định và sắp xếp thứ tự khác nhau. Dưới triều Hồ, thí sinh phải thi thêm kỳ 5 gồm môn ám tả chính tả và môn toán. Năm 1855, nhà Nguyễn quy định thi Hương có 3 kỳ và một kỳ phúc hạch bằng thơ phú. Những ai đỗ ở trường nhất mới được thi trường hai, rồi trường ba, trường bốn. Trường thi Hội đồng thi và chấm thi của kỳ thi Hương bao gồm các khoa sau Đề Điệu Chánh chủ khảo; Giám Thí Phó chủ khảo; Đồng khảo thí Chấm sơ khảo; Khảo thí Chấm phúc khảo; Đằng Lục Làm nhiệm vụ rọc phách, niêm phong; Di Phong Thu nhận quyển thi của thí sinh; Đối độc Đọc lại bài của Đằng Lục chép và đối chiếu với bài của thí sinh cho chính xác. Trường thi Hương là một khu đất rộng được chia làm 4 khu vực hay còn gọi là 4 vi Giáp, Ất, Bính, Đinh cắt theo hình chữ thập 十. Ở giữa là nhà Thập đạo có chòi canh để quan trường giám sát thí sinh ngồi thi. Ở hai bên trái, phải có hai chòi để quan giám sát cả thí sinh lẫn quan trường. Mỗi cửa đốt hai cây đuốc lớn gọi là đình liệu chiếu sáng rực cả trường thi. Xung quanh trường thi được rào hai lần một phên kín, một phên thưa đắp tường hào, cài chông, có cả đội lính gác canh giữ. Trình tự thi Khoảng 20 ngày trước khi thi, thí sinh phải nộp 3 tập giấy bản mới trang đầu ghi lý lịch, địa chỉ, nghề nghiệp của bản thân và thế hệ trước cho Hội đồng thi còn gọi là nộp tuyển. Hai ngày trước khi thi thí sinh đến trường xem số báo danh để biết vị trí ngồi và cửa vào. Từ nửa đêm hôm trước ngày thi, mỗi thí sinh vác một bộ lều chõng, cổ đeo ống quyển, dầu để thắp đèn, nước, vai mang tráp đựng thức ăn, thức uống, đồ dùng trực sẵn ở cửa trường thi. Sau 3 hồi trống, các quan vào vị trí đã định, lại phòng giám thị xướng danh nhận quyển cho thí sinh vào trường. Thí sinh tìm chỗ chọn phần đất rồi tự đóng lều, dựng chõng, mài mực đợi đề thi. Khi trời sáng rõ thì đầu bài được phát, đến trưa họ nộp quyển vào nhà Thập đạo lấy dấu nhật trung và đến tối nộp lại quyển cho lại phòng đóng dấu của Hội đồng thi. Làm bài xong thí sinh ra ngoài trường thi bằng cửa trước. Xếp hạng Thi Hương gồm hai hạng Qua được 3 kỳ đầu hay còn gọi là ba trường thì đỗ cấp tú tài tức sinh đồ – tên dân gian là ông Đồ, ông Tú. Qua được cả 4 kỳ thì đỗ cấp cử nhân tức hương cống – ông Cống, ông Cử Đỗ tú tài thì không được triều đình bổ dụng nhưng đối với trong làng, trong tổng thì địa vị đương sự thăng từ hạng thường dân lên hạng chức sắc, có chân trong hội đồng kỳ mục, được miễn sưu dịch, và khi có cỗ bàn trong đình thì được ngồi chiếu trên. Đỗ cử nhân thì ngoài việc được phép dự thi Hội, còn được bổ nhiệm làm quan trong những ngạch thuộc cửu phẩm, được vua ban áo mũ và làng xã phải phục dịch đón tiếp vinh quy. Lệ vinh quy Từ triều Lê Thánh Tông năm 1481 đã đặt ra lệ xướng danh và vinh quy cho các tân khoa hương cống. Tân khoa ra nhận áo, mũ, và giày vân hài của nhà vua ban rồi tên thì đem yết ở bảng bằng gỗ vẽ hình hổ. Sau đó họ lần lượt ra lễ tạ vua cùng các quan hàng tỉnh và quan trường. Các vị sinh đồ tú tài thì không có áo mũ, cũng không có xướng danh. Tên thì yết ở tấm bảng tre nhưng vẫn là một vinh dự lớn. Phần lễ nghi xong thì các vị tân khoa sửa soạn về quê quán nhưng có sức về phủ, huyện, xã để sửa soạn đón rước gọi là đám rước “vinh quy bái tổ”. Sinh đồ thì hàng xã đón. Hương cống thì hàng tổng trở lên phải cung phụng linh đình, xem như một vinh dự chung của cả làng.[4] Thi hương qua các triều đại Nhà Nguyễn Khi vua Nguyễn Thế Tổ thống nhất đất nước, tổ chức lại việc thi cử thì cũng cho mở khoa thi hương. Khoa thi đầu tiên thời nhà Nguyễn tổ chức năm Đinh mão 1807 nhưng chỉ có ở Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Thành. Từ Quảng Bình trở vào nam không có ai ứng thí. Mãi đến năm Quý dậu 1813 mới có khoa thi hương đầu tiên ở Huế và Gia Định.[5] Khoa cử cáo chung Sang thời Pháp thuộc, chính quyền Bảo hộ dần loại bỏ việc học chữ Nho. Ở Nam Kỳ ngay từ năm 1878 thì chữ Quốc ngữ đã thành văn tự chính thức. Sang thế kỷ 20 Bắc Kỳ mở khoa thi Hương cuối cùng năm 1915, còn khoa thi Hương cuối cùng ở Trung Kỳ là năm 1918. Kỳ thi Hội cuối cùng là vào năm 1919.[6] Triều đình Huế từ đó không dùng khoa cử làm cách tuyển chọn nhân sự nữa.[7] Kỳ thi Hương năm Bính Ngọ triều Thành Thái 1906 có hơn sáu nghìn khóa sinh dự thí ở Nam Định. Đến năm Nhâm Tý triều Duy Tân 1912 thì chỉ còn người đi thi, phản ảnh sự tàn lụi của Nho học ở Việt Nam, và theo đó khoa cử cũng chấm dứt.[7] Trung Quốc Thời kỳ Đường–Tống gọi là “hương cống”, “giải thí”. Đến thời Minh–Thanh cho tổ chức tại các tỉnh. Cứ mỗi chu kỳ 3 năm lại tổ chức một lần, vào tháng 8 âm lịch các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu nên còn gọi là “thu vi”, là chính khoa. Gặp khi tân quân vua mới lên ngôi, mừng thọ, thì có thể thêm một khoa thi nữa gọi là ân khoa. Đến khi thi, triều đình cử chánh phó chủ khảo quan để chủ trì kỳ thi của các sĩ tử, bao gồm thi Tứ Thư, Ngũ Kinh, hỏi về văn sách Tuy nhiên, nội dung của các kỳ thi này là không thống nhất giữa các thời kỳ. Nơi diễn ra thi Hương gọi là cống viện. Kỳ thi này diễn ra 3 lần tam trường, mỗi lần 3 ngày. Đối tượng dự thi Thi Hương do chủ khảo quan chủ trì, tất cả các loại sinh viên, cống sinh, giám sinh đều được phép dự thi. Tuy nhiên, những hạng người sau không được dự thi, bao gồm các quan lại, nha đầu, nghệ nhân, người làm nghề ca kỹ, người cha mẹ mất chưa được 3 năm. Xem thêm Khoa bảng Thi Hương Thi Hội Thi Đình Giải nguyên Hội nguyên Đình nguyên Hương cống Sinh đồ Thái học sinh Phó bảng Trạng nguyên Bảng nhãn Thám hoa Hoàng giáp Đồng tiến sĩ xuất thân Thi Hội Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thi Hội là một khóa thi cử về Nho học do bộ Lễ của triều đình phong kiến tổ chức 3 năm một lần tại các trường trung ương để tuyển chọn người có tài, học rộng. Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất dựa theo quy định thi cử của Trung Quốc. Sau khi thí sinh đỗ kỳ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi Hội. Thi đỗ khóa thi Hội rồi mới được phép dự thi Đình. Những người đỗ thi Đình được bổ dụng quan chức trong triều đình. Theo quy định từ năm 1434, thi Hội tương tự như thi Hương cũng có 4 kỳ. Kỳ I kinh nghĩa, thư nghĩa; Kỳ II chiếu, chế, biểu; Kỳ III thơ phú; Kỳ IV văn sách. Khoa thi này được gọi là “Hội thi cử nhân” hoặc “Hội thi cống sĩ” các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi do đó gọi là thi Hội. Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả 4 kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị gì. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị hương cống hoặc cử nhân. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận là có học vị các loại tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ tức Thái học sinh – tên dân gian là ông Nghè. Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên. Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng ông Phó Bảng. Thi Đình Thi Đình là một khóa thi cử về nho học cao cấp nhất do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính. Sau khi thí sinh đỗ kỳ thi Hội thì mới được dự thi kỳ thi Đình. Đỗ đầu thi Đình gọi là đình nguyên hay điện nguyên. Tổ chức việc thi hương tại Việt Nam được bắt đầu từ thời nhà Lê sơ và tiếp nối qua các thời nhà Mạc, Lê Trung Hưng và nhà Nguyễn Gọi là thi Đình vì thi trong điện của vua. Vua ra đề và chấm khảo thi. Gồm 3 đẳng tam giáp Bậc 3 Đỗ tiến sĩ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân – dân gian gọi là ông tiến sĩ Bậc 2 Đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân hay hoàng giáp – ông hoàng Bậc 1 Đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ. Gồm ba thí sinh đỗ cao nhất gọi là tam khôi Đỗ hạng ba là thám hoa ông thám, hạng nhì là bảng nhãn ông bảng, đỗ đầu là trạng nguyên ông trạng[1] Bậc 3 Đỗ tiến sĩ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân – dân gian gọi là ông tiến sĩ Bậc 2 Đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân hay hoàng giáp – ông hoàng Bậc 1 Đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ. Gồm ba thí sinh đỗ cao nhất gọi là tam khôi Đỗ hạng ba là thám hoa ông thám, hạng nhì là bảng nhãn ông bảng, đỗ đầu là trạng nguyên ông trạng[1] Hòa thượng Thích Thiện Hào thế danh là Trương Minh Đạt, sinh ngày 15 tháng 2 năm Tân Hợi 1911 tại làng An Phú Đông, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định – nay là quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ Ngài là cụ Trương Minh Phát, hiệu Đạt Vinh, thân mẫu là cụ Đinh Thị Cang, Ngài là con một trong gia đình. Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình tin Phật, và như đã có sẵn hạt giống xuất trần từ nhiều kiếp, nên Ngài sớm nhận thức được cõi đời là giả tạm, thế sự phù vân, chỉ có đạo giải thoát là cứu cánh. Năm 1927, Ngài xin phép song thân được xuất gia đầu Phật với Tổ Huệ Đăng nơi chùa Thiên Thai – Bà Rịa, được Tổ ban pháp danh Trừng Thanh, năm ấy Ngài vừa tròn 16 tuổi. Sau khi xuất gia Ngài đã nỗ lực tinh cần tu học, dũng mãnh vượt xa các bạn đồng môn, được Bổn sư và huynh đệ vô cùng yêu mến. Năm Canh Ngọ 1930, Ngài được Tổ cho đặc cách thọ tam đàn Cụ túc giới tại giới đàn chùa Giác Hoằng - Bà Điểm - Hóc Môn, và được ban pháp tự Pháp Quang, pháp hiệu Thiện Hào, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền Giáo Tông. Từ năm 1931 đến năm 1939, Tổ mở trường Gia giáo tại Tổ đình Thiên Thai, Ngài đã cùng với các pháp huynh Hòa thượng Minh Nguyệt, Pháp Dõng, Pháp Lan, Minh Tâm, Pháp Hội tu học ở đây trong một thời gian gần 10 năm. Trong thời gian tu học tại Tổ đình Thiên Thai, ngoài những thời khóa tu học, Ngài còn được gần gũi, hầu cận bên Tổ sư Huệ Đăng. Qua đó, Ngài đã nghe được nội dung những buổi tọa đàm giữa Tổ và cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Hồ Chủ tịch về tình hình đất nước. Từ ấy, Ngài đã bắt đầu có ý thức về tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc, giải phóng quê hương và có dự hướng cho tương lai khi đủ điều kiện. Năm Canh Thìn 1940, Ngài trở về quê nhà, xây dựng ngôi chùa Tường Quang tại xã An Phú Đông, do Ngài làm trụ trì và cùng Pháp huynh là Hòa thượng Pháp Dõng chung lo phát triển ngôi Tam bảo này. Năm Ất Dậu 1945, Ngài tham gia hoạt động cách mạng khi Hội Phật giáo Cứu quốc Nam bộ ra đời do Hòa thượng Minh Nguyệt làm Hội trưởng. Kế tiếp, Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định được thành lập, ban lãnh đạo gồm có Hòa thượng Bửu Đăng làm Hội trưởng, Hòa thượng Pháp Dõng làm Phó Hội trưởng, Hòa thượng Bửu Ý làm Thư ký và Ngài làm Ủy viên Kinh tài, trụ sở đặt tại chùa Tường Quang, xã An Phú Đông. Năm Đinh Hợi 1947, do giặc Pháp càn quét, để bảo toàn lực lượng Ngài phải lánh sang chùa Long Huê - Gò Vấp, rồi đến tá túc tại chùa Thiên Phước-Cầu Kho - Sài Gòn, đồng thời được Hòa thượng Thiên Phước giới thiệu Ngài theo học tại trường Phật học Giác Nguyên ở Khánh Hội do Hòa thượng Hành Trụ chủ giảng. Năm Mậu Tý 1948, Ngài đến nhập chúng nơi trường Hạ chùa Hưng Long - Chợ Lớn, do Hòa thượng Huệ Chánh làm Chủ Hương. Năm Kỷ Sửu 1949, Ngài được Hòa thượng Pháp sư Kiểu Lợi mời về giảng pháp tại trường Hương chùa Linh Quang – Mỹ Tho. Năm Canh Dần 1950, uy tín lan rộng sau khóa An cư ở Mỹ Tho, Ngài được Phật tử thỉnh về trụ trì chùa Phước Nguyên – Bến Tre và cuối năm 1950 về trụ trì chùa Bửu An – Mỹ Tho. Năm 1951 đến năm 1954, khi Giáo hội Tăng Già Nam Việt được thành lập, Ngài được chư Sơn thiền đức suy cử làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng Già tỉnh Mỹ Tho. Trong thời gian hoạt động tại Mỹ Tho và Bến Tre, Ngài đã có nhân duyên hội kiến với các bậc cao Tăng thạc đức, giàu lòng cách mạng và yêu nước lãnh đạo Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Bến Tre như Hòa thượng Thái Không, Phước Chí, Thành Lệ, Niệm Nghĩa Năm Nhâm Thìn 1952, Ngài được Hòa thượng Minh Nguyệt, Ủy viên Mặt trận Liên Việt mời dự Đại hội Liên hoan Tôn giáo Dân tộc tại chiến khu Đồng Tháp Mười và theo học chương trình 3 tháng về chính sách của Đảng Lao Động Việt Nam để tham gia công tác tôn giáo vận. Năm Ất Mùi 1955, Ngài được tổ chức điều trở về hoạt động tại vùng Sài Gòn - Gia Định. Trở về Sài Thành, Ngài trú xứ tại chùa Giác Ngạn - Phú Nhuận. Năm Đinh Dậu 1957, Ngài đã được Tăng Ni Phật tử suy cử làm Tổng Thư ký Giáo hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật Tử. Trụ sở Giáo hội đặt tại chùa Long Vân – Bình Thạnh. Năm Kỷ Hợi 1959, chư Sơn thiền đức suy cử Ngài làm Hội trưởng Hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật Tử. Giữa năm 1960, một cơ sở cách mạng bị lộ khiến nhiều người bị bắt, Ngài phải rời chùa Giác Ngạn lánh về miền Tây và được Hòa thượng Pháp Tràng liên lạc với tổ chức đưa Ngài vào chiến khu Đồng Tháp Mười. Đồng thời năm này, Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập, Ngài được mời làm Ủy viên Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Tây Nam bộ. Năm Tân Sửu 1961, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ 1, Ngài được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Năm Nhâm Dần 1962, Ngài chủ trì Đại hội Tăng Ni tỉnh Bến Tre đạt kết quả thành công tốt đẹp. Năm Quý Mão 1963, Ngài tham dự Đại hội Phật giáo Châu Á tại chùa Quảng Tế - Bắc Kinh. Tại Đại hội, Ngài đã tố cáo chính sách đàn áp tôn giáo của chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam. Toàn thể Đại hội đã vô cùng cảm động và chú ý theo dõi lời phát biểu của Ngài, đồng thời nhiệt tình ủng hộ các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc tại miền Nam trong đó có Phật giáo. Sau đó, Ngài đi thăm một số tỉnh, thành phố của Trung Quốc. Đại hội Phật giáo Châu Á kết thúc, Ngài trở về Hà Nội và đến yết kiến Hồ Chủ Tịch lần đầu tiên. Một tháng sau, Ngài lên đường đi thăm các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa đã ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm Giáp Thìn 1964, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ 2, Ngài được tái cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm Mậu Thân 1968, tại Đại hội Quốc Dân, thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Lộc Ninh - tỉnh Bình Long, Ngài được cử làm Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ. Năm Kỷ Dậu 1969, Ngài tháp tùng phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra thăm miền Bắc và yết kiến Hồ Chủ tịch lần cuối cùng. Năm Nhâm Tý 1972, Ngài dự kiến tham gia Đại hội Phật giáo Châu Á tại Nhật Bản nhưng không thành. Sau đó, Ngài đã đi thăm một số nước Ấn Độ, Népal, Mông Cổ và Liên Xô và trở về nước trong thời điểm hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam được ký kết ở Paris. Năm Quý Sửu 1973, tỉnh Quảng Trị được giải phóng hơn phân nửa, văn phòng và nhà khách Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt tại Cam Lộ, Ngài được cử làm Ủy viên Thường trực để đón tiếp các phái đoàn khách quốc tế đến thăm Chính phủ và văn phòng. Cuối năm 1973, Ngài được cử làm Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Tù chính trị miền Nam Việt Nam để đôn đốc việc thi hành Hiệp định Paris về tù binh. Năm Ất Mão 1975, sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Ngài trở về thành phố Hồ Chí Minh, phụ trách công tác dân vận về tôn giáo của Chính phủ. Tháng 8 năm 1975, Ngài tích cực vận động thành lập Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh do Hòa thượng Minh Nguyệt làm Chủ tịch. Đến năm 1977, Ngài được suy cử bổ sung làm Phó chủ tịch Thường trực Ban liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh. Đầu năm 1976, Ngài là đại biểu tham dự Đại hội Phật giáo châu Á lần thứ 4 được tổ chức tại Nhật Bản. Giữa năm 1976, trong cuộc bầu cử Quốc hội chung cả nước, Ngài đã đắc cử đại biểu Quốc hội khóa VI, đồng thời được cử làm Ủy viên Ủy ban Văn hóa Giáo Dục, Ủy viên Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp của Quốc hội. Cuối năm 1976, Ngài tham dự Hội nghị Hiệp thương thống nhất 3 tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam miền Bắc, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình thành một tổ chức thống nhất là Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam; Ngài được cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều nhiệm kỳ. Năm Canh Thân 1980, Ngài được tái đắc cử làm Ủy viên Thường vụ Quốc hội. Cùng năm, trong bối cảnh đất nước được thống nhất, giang sơn nối liền một cõi, Bắc Nam sum họp một nhà, để đáp ứng nguyện vọng thống nhất Phật giáo Việt Nam của Tăng Ni Phật tử cả nước, Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, gồm chư tôn giáo phẩm của 9 tổ chức hệ phái Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban; Ngài được cử làm Ủy viên Thường trực của Ban vận động. Năm Tân Dậu 1981, Ngài làm Trưởng đoàn đại biểu Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh, tham dự Đại hội đại biểu Phật giáo Thống nhất Việt Nam tại Hà Nội. Tại Đại hội, Ngài được suy tôn làm Thành viên Hội đồng Chứng minh và suy cử làm Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vào năm 1982, Đại hội thành lập Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức. Ngài được Đại hội suy cử làm Phó Ban thường trực và Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Trưởng ban Trị sự. Năm Giáp Tý 1984, theo sự thỉnh cầu của Ban Quản trị và Phật tử chùa Xá Lợi; Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh đã bổ nhiệm Ngài làm Viện chủ chùa Xá Lợi - quận 3 cho đến ngày viên tịch. Năm Đinh Mão 1987, Đại hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ II được tổ chức. Tại Đại hội, Ngài được suy cử làm Trưởng Ban trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh cho đến ngày xả bỏ báo thân. Năm Nhâm Thân 1992, tại Đại hội Phật giáo tòan quốc lần III, Ngài được Đại hội suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến ngày trở về cõi Phật. Năm Quý Dậu 1993, sau khi Giáo hội tiếp nhận cơ sở Quảng Đức, văn phòng 2 Trung ương Giáo hội được dời từ chùa Xá Lợi về trụ sở mới – Thiền viện Quảng Đức - quận 3, Ngài đã được Giáo hội bổ nhiệm làm Viện chủ Thiền viện Quảng Đức. Trong những năm từ 1983 đến 1990, Ngài được Thành hội Phật giáo cử làm Thiền chủ các khóa Hạ do Thành hội tổ chức tại chùa Xá Lợi và Vĩnh Nghiêm để hướng dẫn chư Tăng tu học và làm Trưởng Ban chỉ đạo An cư kiết Hạ hàng năm. Từ năm 1985, sau khi Hòa thượng Thích Minh Nguyệt viên tịch, Ngài đảm nhận chức vụ Chủ nhiệm Báo Giác Ngộ – Cơ quan ngôn luận của Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh cho đến năm 1997. Từ năm 1987 đến 1997, Ngài luôn được cử làm Trưởng Ban Tổ chức các Đại giới đàn do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni tu học và hành đạo. Đối với Tổ đình Thiên Thai, Ngài đã cùng với môn hạ, Tăng Ni, Phật tử nỗ lực trùng tu ngôi Tổ đình và tái thiết ngôi Thiên Bửu Tháp, là dấu ấn của Tổ Huệ Đăng đã dày công xây dựng; công trình được thành tựu viên mãn trở thành thắng cảnh trang nghiêm, xứng đáng vị trí ngôi Tổ đình lịch sử. Qua đó hàng năm đều mở khóa An cư kiết Hạ để Tăng Ni tựu về tu học, đồng thời thành lập trường Sơ cấp Phật Học để đào tạo Tăng Ni tài đức của Phật giáo tại địa phương. Từ năm 1981 đến năm 1996, Ngài luôn luôn là bóng cây đại thụ che mát Tăng Ni Phật tử, thường xuyên tham dự và Chứng minh các Đại hội, các Lễ hội cũng như sinh hoạt Phật sự tại các tỉnh, Thành hội Phật giáo trong cả nước, góp phần xây dựng phát triển Giáo hội ngày càng trang nghiêm, vững mạnh trong lòng dân tộc . Với công đức cao dày đã hiến dâng cho đạo pháp và dân tộc, Ngài đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng thưởng các huân chương cao quý - Huân chương Hồ Chí Minh. - Huân chương Độc Lập hạng Nhì. - Huân chương Kháng Chiến hạng Nhất. - Huy chương Vì Sự Nghiệp Đại Đoàn Kết Toàn Dân. Năm Bính Tý 1996, Ngài lâm bệnh hiểm nghèo, mặc dù cơn bệnh hoành hành, nhưng Ngài vẫn sáng suốt và nhất niệm, nhớ kỹ và nhớ rõ tất cả Phật sự, thường xuyên nhắn nhủ chư tôn Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử trong Giáo hội, Thành hội Phật giáo và môn hạ hãy hòa hợp đoàn kết phát huy truyền thống phụng đạo yêu nước của Phật giáo Việt Nam, góp phần làm tốt đạo đẹp đời. Sức khỏe của Ngài càng lúc càng giảm dần như dầu hết, đèn tắt. Ngài xả báo thân và an tường thị tịch vào lúc 9 giờ sáng ngày 20 tháng 7 năm 1997 nhằm ngày 16 tháng 6 năm Đinh Sửu tại chùa Xá Lợi, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Ngài trụ thế 86 năm, Hạ lạp trải qua 66 mùa An cư kiết Hạ. Hòa thượng Thích Thiện Hào, là một hình ảnh biểu hiện trọn vẹn sự gắn bó hài hòa giữa đạo pháp và dân tộc. Một chuỗi đời hành đạo hy sinh, phục vụ vị tha vô ngã, một nhân cách lớn của Tăng sĩ Việt Nam, đã thắp sáng truyền thống yêu nước, trí dũng bất khuất của lịch sử Phật giáo Việt Nam.

thi hương hội đình