“Tam Tự Kinh” là một tác phẩm kinh điển nổi tiếng đã được dùng làm sách giáo khoa trong trường tư thục từ thời nhà Tống, có văn từ tinh giản, ba chữ một câu, với nội dung giáo dục ở nhiều lĩnh vực từ văn học, lịch sử, triết học, thiên văn, địa lý, luân thường đạo lý và đạo đức. Với tôn chỉ Kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt theo lời của Cao Bá Quát. * Tham khảo cách kể dưới đây: Tôi là Cao Bá Quát, quê ở huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Thuở nhỏ đi học, chữ tôi rất xấu nên nhiều bài văn dù viết hay vẫn bị thầy cho điểm kém. Danh nhân Cao Bá Quát. VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của danh nhân Cao Bá Quát để tìm hiểu và tham khảo giúp các em học sinh lớp 11 hiểu rõ và cuộc đời ông và các tác phẩm nổi tiếng để học tốt môn Ngữ văn. Cột tóc lên trần nhà luyện viết chữ đẹp. Là người thông minh từ nhỏ, năm 12 tuổi, Cao Bá Quát đã theo các bậc đàn anh lều chõng đi thi. Khi còn đi học ở Bắc Ninh, Cao Bá Quát nổi tiếng về tài văn thơ đối đáp thông minh và tài họa, nhưng lại viết chữ rất xấu. Tính Viết câu trả lời của em vào. Cậu bé Cao Bá Quát gặp vua Minh Mạng ở đâu? Khi đó, vua đang làm gì? Cao Bá Quát trong câu chuyện này là một người như thế nào? Kể cho người thân nghe những người có tài năng nghệ thuật mà em biết. Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Cao Bá Quát ❤️️ 12+ Văn Mẫu Tóm Tắt ✅ Gợi Ý Trọn Bộ Bài Mẫu Hay Nhất Để Các Em Có Thêm Tài Liệu Tham Khảo. Cách Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ TốtTóm Tắt Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Ngắn Gọn – Mẫu 1Tóm Tắt Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Đầy Đủ – Mẫu 2Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Ngắn Gọn – Mẫu 3Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Ngắn Hay – Mẫu 4Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Chi Tiết – Mẫu 5Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Theo Lời Của Cao Bá Quát Ngắn – Mẫu 6Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Bằng Lời Của Cao Bá Quát – Mẫu 7Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Mở Bài Gián Tiếp Đặc Sắc – Mẫu 8Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Mở Bài Gián Tiếp Kết Bài Mở Rộng – Mẫu 9Kể Chuyện Cao Bá Quát Hay Nhất – Mẫu 10Kể Chuyện Cao Bá Quát Lớp 4 Sinh Động – Mẫu 11Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Lớp 4 – Mẫu 12 Hướng dẫn bạn đọc cách kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt đó là dựa vào dàn ý sau đây 👉 Dàn ý kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt I. Mở bài 2 dòng đầu tiên của bài đọc Thuở đi học….điểm kém. -> Ngay từ những ngày còn đi học, chữ viết xấu đã ảnh hưởng không tốt đến Cao Bá Quát. II. Thân bài 14 dòng tiếp theo Một hôm có một bà hàng xóm…nhiều kiểu chữ khác nhau. -> Vì chữ viết xấu khiến bà lão không thể kêu oan và bị quan đuổi ra ngoài. Cao Bá Quát ân hận và quyết tâm rèn luyện chữ viết cả ngày và đêm. III. Kết bài 2 dòng cuối Kiên trì luyện tập…..Văn hay chữ tốt. -> Cao Bá Quát đã luyện chữ thành công. Ông nổi tiếng là người văn hay chữ tốt. 👉 Hoặc bằng cách trả lời các câu hỏi sau 1. Vì sao Cao Bá Quát thường bị điểm kém ? 2. Sự việc gì xảy ra đã làm Cao Bá Quát phải ân hận ? 3. Cao Bá Quát quyết chí luyện viết chữ như thế nào ? Xem thêm trọn bộ 🌻 Thơ Cao Bá Quát 🌻 bất hủ Tóm Tắt Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Ngắn Gọn – Mẫu 1 Tham khảo mẫu tóm tắt câu chuyện Văn hay chữ tốt ngắn gọn sau đây nhé! Câu chuyện kể về quá trình rèn chữ viết của Cao Bá Quát. Sau khi lá ông viết lá đơn kêu oan cho bà cụ. Quan không thể nào độc được lá đơn đó vì chữ quá xấu, cho dù nội dung rất lí lẽ và rõ ràng. Biết được tác hại của chữ Bá Quát đã kiên trì rèn luyện chữ viết. Và sau vài năm, ông nổi danh là người văn hay chữ tốt. Tóm Tắt Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Đầy Đủ – Mẫu 2 Xem thêm bài tóm tắt câu chuyện Văn hay chữ tốt đầy đủ ý dưới đây để ôn tập tốt. Từ thuở đi học, chữ viết xấu đã gây bất lợi cho Cao Bá Quát. Do ân hận vì chữ viết xấu của mình khiến nỗi oan của bà cụ hàng xóm không giải tỏa được, Cao Bá Quát quyết tâm luyện viết chữ đẹp. Cao Bá Quát đã thành công, nổi tiếng là người văn hay chữ tốt. Câu chuyện ca ngợi tính kiên trì, quyết tâm sửa chữ viết xấu của Cao Bá Quát. Sau khi hiểu được chữ xấu rất có hại, Cao Bá Quát đã bền bỉ rèn luyện và trở thành người nổi tiếng vì văn hay chữ tốt. Mời bạn tham khảo 🌹 Tóm Tắt Câu Chuyện Cây Cỏ Nước Nam 🌹 ngắn Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Ngắn Gọn – Mẫu 3 Bên cạnh các mẫu tóm tắt, tham khảo mẫu kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt ngắn gọn được gợi ý sau đây. Cao Bá Quát bị điểm kém vì chữ của ông quá xấu. Cho dù văn chương của ông có hay đến mấy nhưng chữ xấu cũng hóa ra hư. Vì viết chữ xấu sẽ khiến người đọc cảm thấy khó khăn, như vậy sẽ không hiểu được nội dung bài viết. Sự việc khiến Cao Bá Quát phải ân hận là việc ông giúp một bà lão viết đơn kêu oan. Lá đơn áy có nội dung rất rõ ràng, lí lẽ hợp lý, nhưng vì chữ viết quá xấu khiến quan không tài nào đọc được. Vì vậy, quan đã sai lính đuổi bà lão ra khỏi công đường. Bà lão đã kể lại cho Cao Bá Quát nghe toàn bộ câu chuyện và ông rất hối hận về điều đó “dù văn có hay đến đâu nhưng chữ xấu cũng chẳng có ích lợi gì”. Cao Bá Quát quyết tâm luyện chữ ngày đêm. Ông luyện chữa rất kiên trì và có phương pháp rõ ràng. Vào buổi sáng, ông thường cầm que vạch lên cột nhà luyện cách viết nét “sổ thẳng” cho cứng cáp. Tối đến, ông cũng tập viết. Khi nào viết xong mười trang vở, ông mới đi ngủ. Khi chữ viết đã tiến bộ, ông mượn những cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Ông đã kiên trì luyện tập chữa viết như thế trong suốt mười năm. Và kết quả là ông có tiếng là người văn hay chữ tốt. Tiếp tục đón đọc mẫu 🌳 Kể Lại Câu Chuyện Ông Trạng Thả Diều 🌳 hay nhất Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Ngắn Hay – Mẫu 4 Dưới đây là mẫu kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt ngắn hay, cùng theo dõi nhé! Thuở đi học, Cao Bá Quát viết chữ rất xấu nên nhiều bài văn dù hay vẫn bị thầy cho điểm kém. Một hôm, có bà cụ hàng xóm sang khẩn khoản Gia đình già có việc oan uổng muốn kêu quan, nhờ cậu viết giúp cho lá đơn, có được không? Cao Bá Quát vui vẻ trả lời Tưởng việc gì khó, chứ việc ấy cháu xin sẵn lòng. Lá đơn viết lí lẽ rõ ràng, Cao Bá Quát yên trí quan sẽ xét nỗi oan cho bà cụ. Nào ngờ, chữ ông xấu quá, quan đọc không được nên thét lính đuổi bà ra khỏi huyện đường. Về nhà, bà kể lại câu chuyện khiến Cao Bá Quát vô cùng ân hận. Ông biết dù văn hay đến đâu mà chữ không ra chữ cũng chẳng ích gì. Từ đó, ông dốc sức luyện viết chữ sao cho đẹp. Sáng sáng, ông luôn cầm que vạch lên cột nhà để luyện chữ cho cứng cáp. Mỗi buổi tối, ông viết xong mười trang vở mới chịu đi ngủ. Chữ viết đã tiến bộ, ông lại mượn những cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Kiên trì luyện tập suốt mấy năm, chữ ông mỗi ngày mỗi đẹp. Ông nổi danh khắp nước là người văn hay chữ tốt. Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Chi Tiết – Mẫu 5 Đừng vội lướt qua mẫu văn kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt chi tiết sau đây Tôi là Cao Bá Quát, sinh ở huyện Gia Lâm một vùng ngoại thành Hà Nội. Tôi được sinh ra trong một gia đình gia giáo. Lúc nhỏ, tôi được đi học như các bạn cùng trang lứa. Sức học của tôi không thua kém gì ai nhưng chữ viết của tôi thì quá xấu. Cũng chính vì thế mà những bài làm văn của tôi không bao giờ được điểm cao mặc dù bài văn rất hay và đủ ý. Không những thế, chữ xấu đã đem lại một sự tệ hại vô cùng. Chuyện là thế này Hôm nọ có cụ bà hàng xóm sang nhà tôi. Cụ khẩn khoản bảo -Gia đình già có việc oan muốn kêu quan, già nhờ cậu viết giúp lá đơn có được không? Nghe cụ nói tôi định từ chối vì nghĩ rằng chữ viết của mình quá xấu. Nhưng trông cụ tội nghiệp quá nên tôi bèn nhận lời -Được, cháu sẽ viết giúp cụ! Cụ già kể đầu đuôi sự việc, tôi chú ý lắng nghe và dùng lý lẽ rõ ràng để viết đơn giúp cụ. Tôi nghĩ rằng quan trên sẽ xét nỗi oan cho cụ. Nào ngờ khi bà cụ trình lá đơn lên công đường, quan trên không đọc được vì chữ quá xấu. Quan sai lính đuổi bà cụ ra khỏi huyện đường. Về nhà, bà cụ kể lại chuyện, tôi ân hận vô cùng. Từ đó tôi quyết chí rèn chữ cho thật đẹp. Hằng ngày tôi miệt mài luyện tập, Buổi sáng, tôi cầm cây que vạch lên cột nhà luyện cách viết nét thẳng cho cứng cáp. Tối đến, tôi viết cho xong 10 trang giấy mới đi ngủ. Dần dần chữ viết của tôi tiến bộ hơn rất nhiều. Tôi ngừng luyện tập viết, ngoài ra tôi còn mượn những cuốn sách viết chữ đẹp làm mẫu để luyện viết nhiều kiểu chữ khác nhau. Mấy năm trời khổ luyện, chữ viết của tôi đã đẹp hơn trước. Tôi thật sự tự hào về chữ viết của mình. Xem nhiều hơn 🌹 Kể Lại Câu Chuyện Ở Vương Quốc Tương Lai 🌹 đặc sắc Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Theo Lời Của Cao Bá Quát Ngắn – Mẫu 6 Tiếp tục bài viết là bài mẫu kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt theo lời của Cao Bá Quát ngắn hay nhất. Chuyện quyết chí rèn chữ viết cho đẹp không thiếu gì trong thiên hạ nhưng với tôi là một bài học quý giá, một kỉ niệm không bao giờ phai. Chuyện thế này… Tôi là Cao Bá Quát, tôi sinh ra ở huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội trong gia đình nho giáo. Lúc nhỏ, tôi được cha mẹ cho đi học. Khả năng tiếp thu của tôi và kiến thức của tôi không thua kém ai nhưng bài làm vãn dù có hay, đúng ý vẫn không bao giờ được điểm cao vì chữ viết quá xấu. Một hôm, có bà cụ hàng xóm sang nhờ tôi rất khẩn khoản – Gia đình già có việc oan uổng muốn kêu quan, già nhờ cậu viết giúp lá đơn, có được không? Vừa nghe cụ già nói, tôi định từ chối vì nghĩ rằng chữ viết của mình quá xấu. Nhưng thấy cụ tội nghiệp và ấm ức nên vui vẻ nhận lời – Được, cháu sẽ giúp cụ, cháu xin sẵn lòng! Cụ già liền kể đầu đuôi câu chuyện, tôi chăm chú lắng nghe và viết lí lẽ rõ ràng. Tôi yên trí và tin tưởng rằng quan trên sẽ xét nỗi oan cho bà cụ. Nào ngờ, khi bà cụ đem đơn đến, quan không đọc được vì chữ viết quá xấu đã thét lính đuổi bà cụ ra khỏi huyện đường, về nhà, bà cụ đem chuyện kể lại và tôi vô cùng ân hận. Từ đó, tôi quyết tàm luyện chữ viết cho thật đẹp. Hàng ngày, tôi mệt mài tập luyện. Mỗi buổi sáng thì cầm que vạch lên cột nhà luyện cách viết nét sổ thẳng cho cứng cáp. Tối đến phải viết xong mười trang viết mới được đi ngủ. Dần dần chữ viết của tôi tiến bộ. Tôi không dừng khổ luyện mà còn mượn cuốn sách viết chữ đẹp làm mẫu để luyện tập nhiều kiểu chữ khác nhau. Kiên trì suốt mấy năm trời, chữ viết tôi ngày một đẹp. Giờ đây, tôi rất tự hào về chữ viết của mình. Có được như vậy là nhờ khổ luyện. Đọc thêm 🌼 Kể Lại Câu Chuyện Lời Ước Dưới Trăng 🌼 ấn tượng Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Bằng Lời Của Cao Bá Quát – Mẫu 7 Cùng đón đọc thêm mẫu kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt bằng lời của Cao Bá Quát một cách súc tích nhất. Tôi là Cao Bá Quát, quê ở huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Thuở nhỏ đi học, chữ tôi rất xấu nên nhiều bài văn dù viết hay vẫn bị thầy cho điểm kém. Một hôm có bà cụ hàng xóm sang khẩn khoản – Gia đình già có một việc oan uổng muốn kêu lên quan, nhờ cậu viết giúp cho lá đơn có được không? Tôi vui vẻ trả lời – Tưởng việc gì khó, chứ việc đó cháu xin sẵn lòng! Lá đơn viết lí lẽ rõ ràng, tôi yên trí quan trên sẽ xét nỗi oan cho bà cụ. Nào ngờ, chữ tôi xấu quá, quan đọc không được nên thét lính đuổi bà cụ ra khỏi huyện đường, về nhà, bà cụ kể lại chuyện ấy khiến tôi vô cùng ân hận. Tôi biết dù văn hay đến đâu mà chữ xấu cũng chẳng ích gì. Từ đó, tôi dốc sức luyện viết chữ sao cho đẹp. Sáng sáng, tôi cầm que vạch lên cột nhà luyện cách viết nét “sổ thẳng” cho cứng cáp. Mỗi buổi tối, tôi viết xong mười trang giấy mới chịu đi ngủ. Chữ viết đã tiến bộ, tôi lại mượn những cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Kiên trì luyện tập suốt mấy năm, chữ tôi mỗi ngày một đẹp. Sau này, tôi nổi danh khắp nước là người văn hay chữ tốt. Tham khảo 💚 Kể Lại Câu Chuyện Nỗi Dằn Vặt Của An-Đrây-Ca 💚 ngắn gọn Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Mở Bài Gián Tiếp Đặc Sắc – Mẫu 8 Chia sẻ đến bạn mẫu văn kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt mở bài gián tiếp đặc sắc được nhiều bạn đọc quan tâm đến sau đây. Cao Bá Quát là danh sĩ Bắc Hà trong thế kỉ XIX, được thiên hạ tôn vinh là “Thánh Quát”. Cao Bá Quát nổi tiếng thần đồng, văn hay chữ tốt của Kinh kì Thăng Long một thời. Bài “Văn hay chữ tốt” giúp chúng ta hiểu hơn sự khổ luyện đèn sách của con người suốt đời chỉ biết “cúi đầu vái lạy hoa mai” này. Thuở nhỏ đi học, Cao Bá Quát vẫn thua kém bạn bè. Văn của cậu bé họ Cao “dù viết hay vẫn bị thầy cho điểm kém ngày xưa gọi là điểm liệt vì chữ “rất xấu”. Cao Bá Quát giàu lòng thương người và rất hào hiệp sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bà cụ hàng xóm bị oan muốn làm đơn “kêu quan”. Chú bé con họ Cao vui vẻ nhận lời “viết giúp lá đơn”. Cao Bá Quát đinh ninh rằng đơn viết “lí lẽ rõ ràng” thế nào quan cũng “xét nỗi oan” cho bà cụ. Lá đơn, cậu bé họ Cao viết chữ xấu quá, quan đọc không được” bèn thét lính đuổi bà ra khỏi công đường. Sau khi nghe bà cụ nói lại, Cao Bá Quát “vô cùng ân hận”. Bài học về chữ xấu đối với chú thật cay đắng và thấm thía. Cao mới hiểu rõ hơn chuyện văn chương chữ nghĩa “dù văn có hay đến đâu mà chữ xấu cũng chẳng ích gì”. Người ta thường nói ai có hoa tay mới vẽ đẹp, viết chữ đẹp. Đọc bài “Văn hay chữ tốt”, ta rất cảm phục tinh thần khổ luyện của Cao Bá Quát về tập viết chữ Hán. Ông luyện tập tỉ mỉ kiên trì. Sáng nào, ông cũng cầm que vạch lên cột nhà để luyện cách viết nét “sổ thẳng” cho cứng cáp. Tối nào, ông cũng tập “viết xong mười trang vở, mới chịu đi ngủ. Khi chữ viết đã tiến bộ, ông mượn những cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện các kiểu chữ khác nhau mà ông cha ta gọi là “thư pháp”. Sự luyện tập của chàng thư sinh họ Cao không phải chỉ diễn ra trong vài tuần vài tháng mà là suốt mấy năm trời “đèn sách”. Nhờ thế mà chữ Cao Bá Quát ngày một đẹp. Về sau ông nổi tiếng Kinh kì là một văn nhân lỗi lạc “văn hay chữ tốt” được nhiều người ngưỡng mộ. Đọc bài “Văn hay chữ tốt”, ta học tập được cách luyện chữ của nhà thơ Cao Bá Quát; ta mới thấm thía viết chữ tốt, viết chữ đẹp vô cùng quan trọng. Phong trào thi đua “vở sạch chữ đẹp” là một phong trào hay trong các trường Tiểu học hiện nay. Học ngữ văn giỏi, tiếng Việt giỏi, chúng ta phải phấn đấu để có “chữ tốt văn hay”. Gợi ý cho bạn 🌹 Kể Lại Câu Chuyện Sự Tích Hồ Ba Bể 🌹 chi tiết Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Mở Bài Gián Tiếp Kết Bài Mở Rộng – Mẫu 9 Hãy cùng tham khảo thêm bài mẫu kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt mở bài gián tiếp kết bài mở rộng ấn tượng dưới đây nhé! “Chữ cũng là tâm người viết. Tâm vẽ ra hình mà có thể phân biệt được người chính hay tà”. Điều này chứng tỏ chữ viết có vai trò vô cùng quan trọng với sự nghiệp của con người. Nhận thức được điều đó tôi đã cố gắng nâng cao trình độ của mình để làm nên được việc lớn. Tôi tên Cao Bá Quát, sinh ở ngoại thành Hà Nội cụ thể là ở huyện Gia Lâm. Thuở nhỏ đi học, chữ tôi rất xấu nên nhiều bài văn dù viết hay vẫn bị thầy cho điểm thấp. Một hôm có bà cụ hàng xóm sang nhờ viết lá đơn để kêu oan. Tôi đã vui vẻ đồng ý. Tôi đã viết lá đơn bằng tất cả những lý lẽ. Nào ngờ, chữ tôi xấu quá, quan đọc không được nên thét lính đuổi bà cụ ra khỏi huyện đường. Việc ấy khiến tôi vô cùng ân hận. Tôi nhận ra dù văn hay đến đâu mà chữ xấu cũng chẳng ích gì. Từ đó, tôi dốc sức luyện viết chữ sao cho đẹp. Tôi luyện chữ cả ngày lấn đêm. Chữ viết đã tiến bộ, tôi lại mượn những cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Kiên trì luyện tập suốt mấy năm, chữ tôi mỗi ngày một đẹp. Sau này, tôi nổi danh khắp nước là người văn hay chữ tốt. Con người sinh ra không phải ai cũng đã có được những nét chữ đẹp, mà chỉ tài giỏi thôi cũng không đủ nên bản thân mỗi con người phải trau dồi cho mình cả văn hay lẫ chữ đẹp để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Tham khảo thêm 💕 Kể Lại Câu Chuyện Nàng Tiên Ốc 💕hay nhất Kể Chuyện Cao Bá Quát Hay Nhất – Mẫu 10 Gợi ý thêm đến bạn mẫu kể chuyện Cao Bá Quát Văn hay chữ tốt hay nhất dưới đây. Cao Bá Quát thường bị điểm kém vì chữ viết rất xấu cho dù bài văn của ông viết rất hay. Cao Bá Quát đã viết đơn cho bà cụ hàng xóm để kêu oan. Nhưng trong lá đơn ấy, tuy lí lẽ rõ ràng nhưng chữ viết xấu quá, quan đọc không được bèn thét lính đuổi bà cụ ra khỏi công đường. Sự việc ấy xảy ra đã làm cho Cao Bá Quát ân hận. Và ông mới thấm thía rằng “dù văn hay đến đâu mà chữ xấu cũng chẳng ích gì !”. Cao Bá Quát đã quyết chí luyện viết chữ rất công phu, tỉ mỉ và có phương pháp. Lúc đầu, sáng nào ông cũng cầm que vạch lên cột nhà luyện cách viết nét “sổ thẳng” cho cứng cáp. Tối nào, ông cũng tập viết, viết xong mười trang vở, ông mới đi ngủ. Khi chữ viết đã đẹp và tiến bộ hơn nhiều, ông đã mượn các cuốn sách chữ viết đẹp làm mẫu để luyện nhiều kiểu chữ khác nhau. Ông đã luyện tập bền bỉ, kiên trì và có phương pháp khoa học như thế trong suốt mấy năm trời, cuối cùng ông nổi danh khắp nước là một người “văn hay chữ tốt”. Kể Chuyện Cao Bá Quát Lớp 4 Sinh Động – Mẫu 11 Tìm đọc thêm mẫu kể chuyện Cao Bá Quát Văn hay chữ tốt lớp 4 sinh động nhất được sưu tầm sau đây Chuyện kể về nghị lực của Cao Bá Quát. Lúc đi học ông viết chữ rất xấu, ông nhận ra dù văn hay nhưng chữ xấu thì không ích gì. Ông khổ công luyện viết nhiều năm, sau này trở thành người nổi tiếng văn hay chữ tốt. Đó là sự việc bà hàng xóm nhờ ông viết một lá đơn kiện. Quan không đọc được lá đơn vì chữ viết xấu, bèn thét linh đuổi bà khỏi công đường. Bà kể lại câu chuyện cho Cao Bá Quát nghe. Cao Bá Quát vô cùng ân hận Từ sự việc trên, ông suy nghĩ “dù văn hay đến đâu, là chữ không ra chữ cũng chẳng ích gì” Từ đó ông dốc sức luyện viết chữ. Sáng sáng ông cầm que vạch lên cột nhà luyện chữ cho cứng cáp, buổi tối ông quyết tâm viết xong mười trang vở mới đi ngủ. Ông còn mượn những cuốn sách có kiểu chữ đẹp luyện tập. Nhờ đó mà chữ ông mỗi ngày đẹp ra và nổi tiếng là người văn hay chữ tốt khắp cả nước Chia sẻ đến bạn bài 💦 Kể Lại Truyện Thạch Sanh 💦 ấn tượng Kể Lại Câu Chuyện Văn Hay Chữ Tốt Lớp 4 – Mẫu 12 Cuối cùng là bài văn kể lại câu chuyện Văn hay chữ tốt lớp 4 mà bạn đọc không nên bỏ lỡ nhé! Nước Việt Nam ta từ xưa đến nay vẫn luôn là vùng đất địa linh nhân kiệt, với sự xuất hiện của lớp lớp những người tài giỏi ở mọi lĩnh vực. Chính họ đã góp công lớn giúp bảo vệ và xây dựng đất nước ta ngày càng vững mạnh. Tựa như khi nói về nét chữ tuyệt đẹp, người ta thường nhớ ngay đến Cao Bá Quát. Cao Bá Quát vốn là một cậu bé thông minh, tài giỏi, nhưng mắc phải tật viết chữ xấu Một hôm, có cụ bà đến nhờ Cao Bá Quát viết giúp mình một lá đơn để thưa kiện. Tuy nhiên, do chữ của Cao Bá Quát xấu quá, quan không đọc được nên lá đơn bị trả về Từ lần đó, Cao Bá Quát rất ân hận, và hiểu rõ sự quan trọng của chữ viết, nên đã ngày đêm ra sức luyện tập. Dần dần, chữ Cao Bá Quát ngày càng đẹp hơn, đều như tranh chữ được khắc. Thêm tài văn chương vốn hơn người, Bá Quát trở thành người tài được nhiều người ngưỡng mộ, kính trọng Nhân vật Cao Bá Quát trong câu chuyện khiến em rất kính trọng và yêu mến. Không chỉ bởi tài năng của anh ấy, mà còn bởi sự quyết tâm, chăm chỉ luyện tập không ngừng nghỉ nữa. Bá Quát thực sự là một tấm gương sáng cho em noi theo. Giới thiệu thêm 🌿 Kể Lại Chuyện Tấm Cám Với Kết Thúc Khác 🌿 ấn tượng Cao Bá Quát nhân tài kiệt xuất trời Nam, một con người nổi tiếng văn hay chữ tốt được dân gian tôn xưng là “Thánh Quát”. Quá tài giỏi nhưng vì khí khái kiêu căng, ngạo nghễ nên cuộc đời ông gặp đầy gian truân… Cao Bá Quát 1809 – 1854 tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Thiên, là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là văn tài xuất chúng của nước ta vào thế kỷ XIX. Ngay từ thuở nhỏ, Bá Quát đã nổi tiếng học giỏi nên được mọi người coi như thần đồng. Tự buộc tóc lên trần nhà, cùm chân vào án thư để luyện chữ Là người thông minh từ nhỏ, năm 12 tuổi, Cao Bá Quát đã theo các bậc đàn anh lều chõng đi thi. Khi còn đi học ở Bắc Ninh, Cao Bá Quát nổi tiếng về tài văn thơ đối đáp thông minh và tài họa, nhưng lại viết chữ rất xấu. Xấu hổ với chữ viết như gà bới, đêm đến, ông thường thức khuya miệt mài tập viết chữ. Buồn ngủ quá, ông tự buộc tóc mình lên mái nhà để mỗi lần ngủ gật bị giật tóc đau, phải tỉnh lại. Ông còn buộc chân vào án thư để không thể “chạy đi chơi” được. Nhờ sự quyết tâm, kiên nhẫn, một thời gian sau, từ viết chữ xấu, Cao Bá Quát nổi tiếng khắp vùng về biệt tài viết chữ đẹp. Tương truyền, chữ viết của ông như “rồng bay phượng múa”, bút tích còn lại hiện nay được lưu lại trong bài đề tựa cuối cùng của “Mai Am thi tập” của công chúa Lại Đức, con gái vua Minh Mạng. Không những viết chữ đẹp, Cao Bá Quát còn nổi tiếng về tài văn thơ. Ông có thể “xuất khẩu thành thơ”, làm vế đối mọi lúc mọi nơi, ý tứ rất chuẩn mực, sắc sảo. Tài năng văn chương của ông khiến ngay cả ông vua hay chữ Tự Đức cũng phải thán phục. Vua trực tiếp ca ngợi ông và người bạn vong niên của ông là Nguyễn Văn Siêu rằng “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”, nghĩa là Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, đời tiền Hán không có ai bằng. Tuy vậy, Cao Bá Quát là người không mấy may mắn trên con đường công danh khoa cử. Năm Minh Mệnh thứ 12 1831, ông thi Hương ở trường Hà Nội, đậu Á nguyên Cử nhân, tức là đỗ thứ nhì trong kỳ thi đó. Nhưng khi bài thi bị duyệt lại vì có lỗi, ông bị đánh tụt xuống cuối bảng. Vào kinh để thi Hội nhiều lần, ông đều bị đánh trượt. Hội thi hương ở trường Hà Nội. Ảnh Wikipedia Chuyện cá nuốt cá, người trói người Chuyện kể rằng khi còn bé, Cao Bá Quát ra tắm ở Hồ Tây. Đúng vào lúc vua Minh Mệnh tuần du ở ngoài bắc, nhà vua cũng đến Hồ Tây xem phong cảnh. Đạo ngự đi qua, tàn lọng rợp trời, gươm đao sáng quắc, ai cũng phải tránh xa, riêng cậu Quát cứ tự do vùng vẫy. Lính đến bắt lôi lên bờ, cậu cứ trần truồng đến trước mặt vua, tự khai là học trò, vì trời nực ra hồ tắm mát. Vua nhìn xuống hồ thấy có con cá lớn đang đuổi đàn cá con, liền đọc một câu đối, bảo nếu đúng Quát là học trò thì phải đối được, sẽ tha không đánh đòn; vua đọc “Nước trong leo lẻo, cá đớp cá”. Bá Quát bèn ứng khẩu đối ngay “Trời nắng chang chang, người trói người” Vua và đoàn tùy tùng nghe xong đều khen hay và tha cho Bá Quát. Một góc Hồ Tây cạnh chùa Trấn Quốc ngày xưa. Ảnh Chơi khăm “ngài” lý trưởng Ở làng Cao Bá Quát có viên lý trưởng có tiếng là hay nhũng lạm. Dân làng chê trách nhưng không ai dám chỉ trích công khai. Cao Bá Quát tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cũng biết chung mối bất bình với dân chúng. Nhân có hội làng, dân làng cho đắp đôi con voi thờ dựng trước cửa đình, mà tiền đắp voi chủ yếu là do vị lý trưởng kia bỏ ra lấy tiếng là làm công đức nhưng thực chất là mua danh. Bá Quát liền rủ chúng bạn ra xem rồi lựa lúc vắng vẻ lấy bút viết luôn vào lưng voi bài thơ như sau “Khen ai rõ khéo đắp đôi voi Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi Chỉ có cái kia sao chẳng đắp Hay là thầy Lý bớt đi rồi?” Ước đời như Nghiêu, Thuấn Một lần Cao Bá Quát đến nghe bình văn ở một trường Đốc. Nghe đọc những câu văn tầm thường, ông cứ lắc đầu và còn bịt mũi tỏ ra khó chịu. Lính bắt vào nộp quan đốc học. Quát xưng là học trò, hỏi học với ai, ông trả lời – Tôi học với ông Trình ông Chu. Trình, Chu là hai vị học giả vào hàng tôn sư trong đạo Nho. Trả lời như vậy là tỏ ra mình học với các bậc thánh hiền, học từ gốc chứ không thèm học ngọn! Quan đốc giận lắm, ra câu đối bắt Quát phải đối ngay – “Nhĩ tiểu sinh hà xứ đáo lai, cảm thuyết Trình Chu sự nghiệp”? Tạm dịch là Chú bé này ở đâu đến đây, dám nói đến sự nghiệp ông Trình, ông Chu to lớn? Thời kỳ Nghiêu Thuấn là thười kỳ thịnh vượng coi trọng đạo đức, tôn kính trời đất là thời kỳ đặt định văn hóa cho con người. Ảnh Cậu Quát bèn lập tức đối lại – “Ngã quân tử kiến cơ nhi tác, dục vi Nghiêu Thuấn quân dân”. Tạm dịch Người quân tử gặp thời làm việc, muốn quân dân đều được như đời Thuấn, đời Nghiêu. Quan đốc phục tài, nhất là cảm cái chí hướng lớn lao của người trẻ tuổi này. Ông đã không giận mà còn thưởng cho Cao Bá Quát. Kết bạn vong niên với Nguyễn Siêu Thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Siêu nổi tiếng là hay chữ. Được biết ông Siêu dạy học ở Hà Nội, Cao Bá Quát liền từ Bắc Ninh sang Hà Nội, tìm đến trường của ông Siêu dạy để nghe giảng bài. Bá Quát tới nơi, đứng cửa sổ dòm vào, thấy một ông đồ khoảng 25, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất, chứng tỏ là một lớp học nghèo. Thầy đồ Siêu nhìn thấy một anh chàng trẻ tuổi chừng mười lăm, mười sáu, thơ thẩn đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, thầy đồ hỏi – Anh đi đâu mà đứng ở đây? Bá Quát trả lời – Tôi là học trò đi qua trường, thấy thầy giảng văn muốn xin thầy cho vào nhập học. Ông Siêu muốn thử tài học của Bá Quát, bèn nói – Nếu thật anh là học trò, thì anh đối thử vế đối này “Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két”. Tạm dịch là Ông thầy ngồi trên chõng, kêu cót két, két cót, cót cót két két. Bá Quát liền đối lại “Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ” Tạm dịch trò nhỏ vào sân trường, đi thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ. Nguyễn Văn Siêu nghe thấy vế đối tài tình rất phục, mời vào trong ngồi, hỏi tên tuổi và lai lịch mới biết là Cao Bá Quát ở Bắc Ninh, là người mà ông đã nghe tiếng đồn là thần đồng. Về sau hai người đi lại thăm nhau luôn và trở thành đôi bạn vong niên thân thiết. Bá Quát tới nơi, đứng cửa sổ dòm vào, thấy một ông đồ khoảng 25, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất. Ảnh THTG Đèn nhà ai nhà nấy rạng Chuyện kể rằng Cao Bá Quát có dịp vào Quảng Nam, đến thăm nhà một cụ đồ sau này là thân sinh ông Nguyễn Hiển Dĩnh. Nhiều người nghe tiếng ông giỏi thơ văn đã đến xin chữ. Một người làm đôi đèn lồng để thờ mẹ, xin ông cho một đôi câu đối chữ Nôm. Ông Quát viết luôn vào đôi đèn lồng hai câu rất tài tình như sau “Trước mẹ dạy con gió chiều nào che chiều ấy, con dạ. Giờ con thờ mẹ đèn nhà ai rạng nhà nấy, mẹ ơi!” Người đời đều khen tụng là cặp câu đối rất hay, dùng toàn thành ngữ dân gian mà lại rất tương hợp với hoàn cảnh của chủ nhân cũng như ý nghĩa và công dụng của cái đôi đèn thờ. Bản tấu trình hiểm hóc Nhờ có tài văn chương, tuy chức phận thấp, Cao Bá Quát vẫn thường được nhiều người coi trọng, kể cả nhà vua. Chuyện kể rằng một hôm có hai vị quan trong triều là Phan Văn Nhã và Võ Văn Khải đánh nhau vì chuyện văn chương. Ông Khải xem bài văn của ông Nhã, chê kém và nói “Văn như thế chó nó cũng làm được”. Thế là hai bên sinh sự. Cao Bá Quát vì có chứng kiến việc này nên vua Tự Đức bắt viết tờ tấu trình cho vua rõ đầu đuôi. Quát cứ “sự thực tường khai” như sau “Quát quá Nhã gia Nhã hô Quát! Quát! Quát lai ẩm Thủ bất tri Vĩ bất tri Bất tri như hà Chỉ kiến lưỡng tương đấu khẩu Bỉ viết cẩu Thử diệc viết cẩu Thượng hạ giai cẩu Lưỡng tương đấu ẩu Thần kiến thế nguy Thần cụ thần tẩu”. Mấy câu thơ trong bản tấu trình trên tạm dịch là “Quát qua nhà Nhã Nhã gọi Quát! Quát! Quát đến uống Đầu không biết Cuối không biết Chẳng biết vì sao Chỉ thấy hai bên cãi cọ… Bên này rằng chó Bên kia cũng chó Trên dưới đều chó Hai bên đấu võ Thần thấy thế nguy Thần sợ thần chạy!” Vua Tự Đức đọc tới câu “Thượng hạ giai cẩu”, biết là Cao Bá Quát lợi dụng lời khai để chơi khăm cả nhà vua, nhưng vì lời khai hay và đúng sự thực quá nên cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Quát viết tấu chương kể lại sự việc có pha chút chơi khăm nhà vua. Ảnh Spiderum Cả gan mà vuốt râu hùm Thời Bá Quát còn làm quan đương triều, Vua Tự Đức thường cứ nghĩ ra những trò văn chương độc đáo để khoe tài với các quan. Một lần, ông nói với họ – Đêm qua, trẫm nằm mơ thấy hai câu thơ thật đặc biệt “Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai” Ý tứ là Trong vườn chim oanh hót giọng “khề khà”; Ngoài đồng hoa đào nở “lấm tấm”. – Các khanh thấy thế nào? Các quan đều nức nở khen thơ hay và lạ, có chữ Hán kèm tiếng Nôm, rõ nghĩa mà có hình ảnh tân kỳ, chắc là tiên thánh nào ban cho, hoặc nhà vua nghĩ được câu thần cú. Chỉ có Cao Bá Quát quỳ tâu – Tâu bệ hạ, câu thơ ấy là thơ cũ đấy ạ! Nguyên là hai câu 3, 4 ở một bài thơ thần đã được nghe. Vua ngạc nhiên lắm, thơ mình nghĩ ra kia mà! viên quan họ Cao này sao dám nói là thơ cũ? Nhưng vua cũng bình tĩnh bảo – Nếu khanh đã nghe cả bài thì đọc thử xem Cao Bá Quát bèn đọc tức thì “Bảo mã tây phong huếch hoác lai Huênh hoang nhân tự thác đề hồi Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai Xuân nhật bất văn sương lộp bộp Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài Khù khờ thi tứ đa nhân thức Khệnh khạng tương lai vấn tú tài” Tạm dịch là “Gió tây ngựa huếch hoác về Huênh hoang người cũng tự đi theo vào Khề khà oanh hót vườn nao Đồng quê lấm tấm muôn đào nở hoa Xuân không lộp bộp sương sa Ngày thu chỉ thấy trời mưa bài nhài Khù khờ thơ đã cũ rồi Ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ” Đức vua bị một “đòn” đau quá. Ông biết rõ Cao Bá Quát bịa ra, mà lại ngang nhiên trêu chọc ông “Khù khờ thơ đã cũ rồi, ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ”. Nhưng ngoài mặt nhà Vua vẫn phải khen hay – vì đúng là thơ của Bá Quát hay thật, và sai lính mang trà tặng thưởng Cao Bá Quát. Vua bị chơi khăm nhưng vẫn nể phục Quát. Ảnh minh họa Pinterest Tiếc cho một nhân tài Cao Bá Quát là người rất bản lĩnh. Ông dù sống một đời thanh bần nhưng luôn coi thường những kẻ khom lưng, luồn cúi để được giàu sang, và là người thường tự tin rằng có thể thay đổi được vận mệnh của đời mình. Khi ra làm quan, ông muốn đem tài năng giúp đời, nhưng rồi sớm nhận ra có những vấn đề không thể thay đổi được. Những lúc cảm thấy như bất lực trước thời cuộc ấy, ông muốn hưởng an nhàn. Nhưng khi chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân ông lại không thể. Cuối cùng, con đường ông lựa chọn là tham gia khởi nghĩa nông dân. Triều Nguyễn càng về cuối càng suy tàn. Năm 1850, Cao Bá Quát được triều đình cử đi giữ chức Giáo Thụ ở Quốc Oai Sơn Tây. Năm 1853 các tỉnh Sơn Tây, Kinh Bắc bị nạn châu chấu cắn lúa, dân đói khổ, nổi loạn. Ông từ chức, lấy cớ nuôi mẹ già rồi liên lạc với các nhóm nghĩa quân, lại bầu Lê Duy Cự tức Duy Đồng, tự xưng là cháu bốn đời của Lê Hiển Tông lên làm Minh chủ, còn mình thì làm Quốc sư. Nghĩa quân phát động khởi nghĩa ở Mỹ Lương, tức Chương Mỹ và Lương Sơn, Bắc Ninh, tiến đánh vùng Hà Nội, Sài Sơn Sơn Tây nhưng mấy tháng sau thua trận phải rút về Mỹ Lương. Tháng 11 năm 1854 ông mất. Về cái chết của Cao Bá Quát có nhiều thuyết khác nhau. Một số người tin rằng ông bị bắt, giải về Hà Nội rồi đưa vào giam ở Huế trước khi đem ra chém đầu, Trong thời gian bị giam trong ngục ông có làm đôi câu đối nổi tiếng “Một chiếc cùm lim chân có đế, Ba vòng dây xích bước còn vương”. Dựa vào văn phong, người ta có thể tin đôi câu đối trên là do ông sáng tác. Song theo cuốn chính sử của nhà Nguyễn – “Đại Nam Thực lục chính biên” thì cho hay “Năm 1854 ông bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Vua Tự Đức hạ lệnh bêu đầu ông khắp các tỉnh miền Bắc rồi bổ ra ném xuống sông. Sau Quang được thăng lên Cai đội”. Như vậy là ông chết trận chứ không hề bị giam cầm. Cũng có thuyết nói ông bị bắt và tự sát trên đường giải về Kinh. Có lẽ người ta đã nhầm ông với người anh song sinh của ông là Cao Bá Đạt khi ấy đang làm Tri huyện Nông Cống Thanh Hóa, vì em làm phản mà bị vạ lây, bị bắt giải về kinh đô, giữa đường Bá Đạt cắn ngón tay viết bản trần tình rồi tự tử. Sau khi Cao Bá Quát qua đời, các tác phẩm của ông bị triều đình tiêu hủy khá nhiều. Hiện nay còn giữ lại được khoảng bài thơ và 21 bài văn xuôi. Đường Phong Bùi Thị Đào Nguyên Phần I Cuộc đời và sự nghiệp văn chương Cao Bá Quát 1809? – 1855, tên tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Ông là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương nay thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong văn học Việt Nam. I. Thân thế & sự nghiệp Cao Bá Quát, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Ông là con Cao Tửu Chiếu, tuy không đỗ đạt nhưng là một nhà nho khá nổi danh; và là em song sinh với Cao Bá Đạt cha Cao Bá Nhạ, tác giả Tự tình khúc. Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Năm 14 tuổi, ông trúng tuyển kỳ thi khảo hạch ở Bắc Ninh. Năm Tân Mão 1831 đời vua Minh Mạng, ông thi hương đỗ Á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, thì bị bộ Lễ kiếm cớ [1] xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ Cử nhân. Sau đó trong chín năm, cứ ba năm một lần, Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội, nhưng lần nào cũng bị đánh hỏng. Năm 1841, lúc này ông đã 32 tuổi, mới được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử lên triều đình, triệu vào Huế để nhận một chức tập sự ở bộ Lễ Hành tẩu. Tháng 8 năm đó, ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn với bạn đồng sự là Phan Nhạ rồi lấy son hòa muội đèn chữa giúp 24 quyển. Việc bị phát giác, Giám trường thi là Hồ Trọng Tuấn đàn hặc, ông bị bắt giam, bị tra tấn rồi bị kết vào tội chết. Nhưng khi án đưa lên, vua Thiệu Trị đã giảm cho ông từ tội trảm quyết xuống tội giảo giam hậu, tức được giam lại đợi lệnh. Sau gần ba năm bị giam cầm khổ sở, ông được triều đình tạm tha, nhưng phải đi xuất dương hiệu lực tức lấy công chuộc tội đến vùng Hạ Châu Singapore trong phái bộ do Đào Trí Phú làm trưởng đoàn. Tháng 8 năm 1844, đoàn thuyền của phái bộ về đến Việt Nam, và sau đó Cao Bá Quát được gọi về bộ Lễ. Ở đây không lâu, ông bị thải hồi về quê. Trước đây, ông vốn ở phố Hàng Ngang nay gần phố Nguyễn Thái Học, năm 24 tuổi ông vào kinh thi Hội, thì vợ ông ở nhà đã xin phép cha chồng cho sửa lại một ngôi nhà gần Cửa Bắc về phía Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Về Hà Nội, ông dạy học nhưng luôn sống trong cảnh nghèo và bệnh tật [2] Ở đây những lúc rỗi, ông thường xướng họa với các danh sĩ là Nguyễn Văn Siêu, Trần Văn Vi, Diệp xuân Huyên… Sau ba năm bị thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào Huế 1847 làm ở Viện Hàm lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Được hơn một tháng, ông nhận lệnh đi công cán ở Đà Nẵng, rồi trở về công việc cũ. Thời gian ở kinh lần này, ông kết thân với các văn nhân như Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật Thận, Nguyễn Phúc Miên Thẩm, Nguyễn Phúc Miên Trinh…và ông đã gia nhập Mạc Vân Thi xã do hai vị hoàng thân này sáng lập. Năm 1850 [3], không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát phải rời kinh đô Huế đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai Sơn Tây cũ. Một lần nữa, ông lại trở về quê để cùng khổ với dân, để suy nghĩ thêm về những chính sách hà khắc của triều đình, để thêm quyết tâm đánh đổ nó. Giữa năm 1853, lấy cớ về nuôi mẹ già, ông xin thôi dạy học. Gặp lúc vùng Sơn Tây bị hạn nặng, lại có nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống người dân hết sức đói khổ. Phần thì phẫn chí, phần thì thương dân, khoảng cuối năm 1854, Cao Bá Quát tham gia lãnh đạo tự lãnh chức Quốc sư cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương Sơn Tây, do Lê Duy Cự làm “Minh chủ”. Đang trong quá trình chuẩn bị, thì việc bị bại lộ. Trước cục diện này, Cao Bá Quát đành phải phát lệnh tấn công vào cuối năm 1854. Buổi đầu cuộc khởi nghĩa giành được một số thắng lợi ở Ứng Hòa, Thanh Oai…Nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung đông đảo và tổ chức phản công thì nghĩa quân liên tiếp bị nhiều thiệt hại. Tháng Chạp năm Giáp Dần tháng Chạp năm này rơi vào năm dương lịch 1855, sau khi bổ sung lực lượng chủ yếu là người Mường và người Thái ở vùng rừng núi Mỹ Lương, Cao Bá Quát đem quân tấn công huyện lỵ Yên Sơn lần thứ hai. Phó lãnh binh Sơn Tây Lê Thuận đem quân nghênh chiến. Cuộc đối đầu đang hồi quyết liệt tại vùng núi Yên Sơn, theo sử nhà Nguyễn, thì Cao Bá Quát bị Suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Tiếp theo, thủ lĩnh Nguyễn Kim Thanh và Nguyễn Văn Thực cũng lần lượt sa vào tay đối phương sau, cả hai đều bị chém chết. Ngoài những thiệt hại này, hơn trăm nghĩa quân bị chém chết và khoảng 80 nghĩa quân khác bị bắt. Nghe tin đại thắng, vua Tự Đức lệnh cho ban thưởng và cho đem thủ cấp của nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống sông. II. Tác phẩm Ngay khi Cao Bá Quát tham gia cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương Sơn Tây, các tác phẩm của ông đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kĩ thuật trung ương Hà Nội, và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán. Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng. Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập -Cao Bá Quát thi tập -Cao Chu Thần di thảo -Cao Chu Thần thi tập -Mẫn Hiên thi tập III. Sự nghiệp văn chương Tuổi trẻ của Cao Bá Quát được ghi lại bằng hàng loạt bài thơ tràn đầy khí phách Tài mai [Trồng mai], Thanh Trì phiếm châu nam hạ [Từ Thanh Trì buông thuyền xuôi nam], Quá Dục Thúy Sơn [Qua núi Dục Thúy]…. Trích hai câu trong bài Quá Dục Thúy Sơn Ngã dục đăng cao Hạo ca ký vân thủy Dịch Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước… Nhưng rồi, mấy lần khăn gói vào Huế thi đều bị hỏng, nên mộng khoa cử đã tan. Năm 32 tuổi, lần đầu ông được bộ làm một chức quan nhỏ Hành tẩu bộ Lễ. Ở đây, ông bắt đầu cảm thấy nhục chí và bế tắc khi nhìn thấy cảnh thối nát, bất công và hèn yếu của nhà Nguyễn. Đến khi bị tù, bị tra tấn vì chữa những quyển thi, ông càng đau khổ, uất ức và căm thù cái triều đình ấy Cấm sở cảm sự, túng bút ngẫu thư [Nơi nhà giam nhân việc cảm xúc phóng bút viết ngay], Trường giang thiên [Một thiên vịnh cái gông dài], Đằng tiên ca [Bài ca cái roi song], Độc dạ cảm hoài [Ban đêm một mình cảm nghĩ]…. Trích mấy câu trong Trường giang thiên dịch Gông dài! Gông dài! Mày biết ta chăng? Ta chẳng có gì đáng hợp với mày cà! Mày biết thế nào được ai phải ai trái! Mày chẳng qua chỉ là cái máy làm nhục người đời mà thôi… Sau thời gian dương trình hiệu lực, Cao Bá Quát bị thảy về quê quán. Ông càng có nhiều dịp tiếp xúc với đời sống của nhân dân. Những cảnh người dân vì túng thiếu đói rét, phải đi xin ăn hay những cảnh họ bị bắt phu bắt lính…đều đã làm ông đau xót, day dứt Cái tử [Người ăn xin], Phụ tương tử [Người vác hòm], Quan chẩn [Xem phát chẩn]…. Đứng trước những cảnh tình ấy, cộng thêm nỗi đau của bản thân, cuối cùng đã dẫn ông đến những ý nghĩ hành động Ta đã không nỡ nghe mãi bài thơ Hoàng Điểu nói lên cảnh ly tán của nhân dân do chính sự hà khắc, thì lẽ nào chỉ chịu gửi gắm mãi tâm sự vào khúc ngâm của Gia Cát Lượng khi chưa ra giúp đời trích bản dịch bài Ngẫu nhiên nằm mơ đến thăm ông Tuần phủ… Tuy nhiên, mãi đến lần Cao Bá Quát bị đổi về làm Giáo thụ ở Quốc Oai, thì suy nghĩ mới trở thành quyết tâm đứng lên đánh đổ nhà Nguyễn Đối vũ [Nhìn mưa], Trích Tống Nguyễn Trúc Khê xuật lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Huy vĩnh lão khê [Tiễn Nguyễn Trúc Khê ra nhận chức tại phủ Thường Tín, đồng thời gửi cho ông bạn già là Lê Huy Vĩnh]…. Trích giới thiệu Mặt trời đỏ lẩn đi đàng nào? Để dân đen than thở mãi… trích Đối Vũ Và Tài trai sống ở đời, đã không làm được việc phơi gan, bẻ gãy chấn song, giữ vững cương thường. Lại ngồi nhìn bọn cầm quyền sói lang hoành hành, Đến lúc tuổi già thì mặc áo gấm ban ngày về bôi nhọ quê hương. Chỉ cúi đầu luồn xuống mái nhà thấp, nhục cả khí phách, Đến lúc già thì gối đầu vào vợ con mà chết, Giả sử hạng người ấy xuống suối vàng gặp hai cụ Chu Văn An và Nguyễn Trãi, Thì cũng mặt dầy, trống ngực đánh, thần sắc rũ rượi ra mà thôi… Trích bản dịch nghĩa bài Tống Nguyễn Trúc Khê xuật lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Huy vĩnh lão khê. Trích đánh giá trong Từ điển văn học bộ mới Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh. Từ những tác phẩm đầu tiên đã thấy lòng tin của nhà thơ vào ý chí và tài năng của mình. Ông sống nghèo, nhưng khinh bỉ những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang, và tin rằng mình có thể tự thay đổi đời mình. Đến khi làm quan, muốn đem tài năng ra giúp đời, nhưng rồi Cao Bá Quát sớm nhận ra rằng vấn đề không hề đơn giản như ông tưởng. Có những lúc cảm thấy bất lực trong việc thay đổi, ông muốn hưởng nhàn, vào hưởng lạc như Nguyễn Công Trứ. Thế nhưng mỗi khi nghĩ đến những người cùng khổ bị áp bức, ông lại thấy cách đó là không thể, mà phải tìm một con đường khác. Cuối cùng, con đường mà ông chọn là đến với phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Ngoài những chủ đề nêu trên, ông còn viết về vợ con, bè bạn, học trò và quê hương. Bài nào cũng thắm thiết, xúc động. Ông cũng có một số bài đề cao những anh hùng trong lịch sử, để qua đó thể hiện hoài bão của mình. Ông cũng có một số bài thơ viết về chuyện học, chuyện thi mà ông cho rằng chỉ là chuyện “nhai văn nhá chữ”. Trong dịp đi sang Hạ Châu, ông cũng có những bài thơ phản ảnh cảnh bất công giữa người da trắng với người da đen… Về mặt nghệ thuật, Cao Bá Quát là một nhà thơ trữ tình với một bút pháp đặc sắc. Ông làm thơ nhanh, có lúc “ứng khẩu thành chương”, nhưng vẫn thể hiện được cảm xúc vẫn dồi dào và sâu lắng. Và mặc dù hình tượng trong thơ ông thường bay bổng, lãng mạn, nhưng trong những bài viết về quê hương thì ông lại sử dụng rất nhiều chi tiết hiện thực gợi cảm. Ngoài ra, đối với thiên nhiên, ông cũng hay nhân cách hóa, coi đó như những người bạn tri kỷ tri âm… Trích thêm một số nhận xét khác -GS. Dương Quảng Hàm Cao Bá Quát là một văn hào có nhiều ý tứ mới lạ, lời lẽ cao kỳ. -GS. Thanh Lãng Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn nghĩa quân thần; còn ông Quát mang cả cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh…Về mặt nghệ thuật, sở trường của ông là thể phú và thể ca trù. Hai thể này, với ông đã vươn tới một trình độ nghệ thuật tuyệt vời. Có điều ông hay lạm dụng chữ nho và điển tích, vì vậy có thua kém Nguyễn Công Trứ về thể loại ca trù. -Thi sĩ Xuân Diệu Cao Bá Quát trước mắt chúng ta, tượng trưng cho tài thơ và tinh thần phản kháng. Còn triết lý của ông chính là bền bĩ phục vụ cho đời. -Sách Văn học 11 và Ngữ văn 11 nâng cao Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn. Thơ ông phong phú trong nội dung cảm hứng tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, với người thân, sự đồng cảm nhân ái với những con người lao khổ; niềm tự hào với quá khứ lịch sử dân tộc và có thái độ phê phán mạnh mẽ đối với triều chính đương thời. Đặc biệt qua thơ văn, Cao Bá Quát còn bộc lộ một tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt tiếp nhận những hương vị, những màu sắc mới lạ khác với cái nhìn truyền thống. Nhờ tất cả những điều ấy mà thơ văn ông mới mẻ, phóng khoáng, chú trọng tình cảm riêng của con người, được người đương thời rất mến mộ. Xét về vị trí lịch sử, ông là nhà thơ lớn sáng tác bằng chữ Hán kế sau Nguyễn Du. VI. Vài vấn đề liên quan Năm sinh, năm mất Về năm sinh của Cao Bá Quát, sử sách triều Nguyễn không ghi ngày sinh của Cao Bá Quát. Khẳng định ông sinh năm 1809 là căn cứ vào bài “Thiên cư thuyết” của ông. Trong bài có chỗ viết “Với cái tuổi ta mới hai kỷ mà núi sông thành quách cũ, đã thấy thay đổi đến ba lần”. Cuối bài ghi “Tháng mạnh thu, năm Nhâm Thìn, Chu thần thị viết bài thuyết này”. Năm Nhâm Thìn tức là năm 1832 – nếu ông đủ hai kỷ tức 24 tuổi tính theo âm lịch thì tức là ông sinh năm Kỷ Tỵ, Gia Long thứ 8 1809. Về năm mất, có một vài tác giả cho rằng Cao Bá Quát mất năm 1854. Nhưng theo tác giả Trần Công Nghị thì Cao Bá Quát mất ngay tại trận tiền vào tháng Chạp năm Giáp Dần. Khi chuyển qua dương lịch thì Ngày 01 tháng Chạp, năm Giáp Dần nhằm ngày 18 tháng 01 năm 1855. Ngày 30 tháng Chạp, năm Giáp Dần nhằm ngày 16 tháng 02 năm 1855. Như vậy nguyên tháng Chạp năm này đều rơi vào năm 1855. Cho nên năm qua đời của Cao Bá Quát phải ghi là năm 1855 mới đúng. Những giai thoại Hiện vẫn còn tồn tại nhiều giai thoại liên quan đến nhân cách và tài thơ của Cao Bá Quát như Bịa thơ tài hơn vua, Chữa câu đối của vua, Cá nuốt người- người trói người, Trên dưới đều chó, Câu thơ thi xã Tuy nhiên, theo GS. Vũ Khiêu thì đa phần chúng đều thiếu căn cứ và chưa được xác minh. Bởi vậy theo ông chỉ có thể hiểu Cao Bá Quát và đánh giá đúng tư tưởng cùng hành động của ông trên cơ sở phân tích nguồn gốc xã hội, diễn biến trong cuộc đời và trong thơ văn của ông mà thôi. Ở một đoạn khác, giáo sư lại viết Khác với một số giai thoại có ý nói Cao Bá Quát là một con người kiêu căng, ngỗ ngược; và qua số một bài thơ cùng bài hát nói được gán cho ông, có người còn muốn coi ông là kẻ thích hưởng lạc, chè rượu, trai gái… Trái lại, qua cuộc đời và thơ văn ông, chỉ thấy ông là một người biết giữ gìn phẩm hạnh, đối xử đúng mực với cha mẹ, anh em, vợ con, hàng xóm và biết yêu quí đất nước, quê hương. Đề cập đến Trần tình văn [4] của Cao Bá Nhạ, theo giáo sư thì rất có thể người cháu này đã đỗ lỗi cho chú để minh oan cho mình. V. Thơ liên quan Không chỉ tác phẩm của Cao Bá Quát bị thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành; mà những bài thơ của các tác giả khác có nói đến ông đều không được in ấn hay phổ biến. Sau đây là hai bài thơ còn sót lại Nghe tin Cao Bá Quát bị bắt đi hiệu lực, buồn rầu Thương Sơn công tức Tùng Thiện Vương đã làm bài thơ như sau Giữa đất trời một tấm thân khốn khổ Nơi chân trời chỉ có hình và bóng tự thân thiết với nhau. Vườn cũ, ba lối cúc tùng hoang lấp Đêm tàn, trong sương gió nhớ hai người. Nghĩ đến chuyện sừng ngựa không mọc, luống rơi nước mắt [5] Muốn bói ngày về lại chẳng có nguyên do Tình bạn bè vì ông, ngoảnh nhìn về phương Nam lo lắng Ngày này bao lần trông được ân xá. Dịch nghĩa bài Tặng Cao Bá Quát Nghe tin ông mất, bạn ông là danh sĩ Nguyễn Văn Siêu [6] có bài thơ truy điệu, được dịch ra rằng Đàn còn bên vách, sách bên màn Một giấc nghìn thu bặt tiếng vang, Điên đảo non sông nhòa lối cũ, Âm thầm đất nước ngấm bi thương. Duyên văn đã kết đây cùng đó, Nghĩa cũ dù ai nhớ chẳng buồn! Đạo học tỏ mờ chưa dễ biết, Cửa người khép nép mãi sao đương. Sau này, khi đọc tập thơ Cao Bá Quát, nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã cảm khái làm ba bài thơ đề hậu, trích một Ừ, thế non sông mới thấy tài, Tài cao há lẽ núp như ai. Xung lên, trời muốn hai tay đấm, Hứng tới, vời toan một cẳng bơi. Mây gió xoay tròn đầu ngọn bút, Càn khôn chốt lỏng nửa tròng ngươi. Khí thiêng đất nước còn nguyên đó, Chín suối ai ơi đứng dậy cười! Chú thích [1] GS. Phạm Thế Ngũ giải thích Vì ông không chịu khuôn phép trường quy. Như có lần, ông viết quyển thi bằng bốn kiểu chữ chân, thảo, triện, lệ. Ngoài ra, văn ông rất có khí phách ngang tàng. Bởi vậy, mà các khảo quan đâm ra ghét và tìm cách đánh hỏng sách đã dẫn, tr. 438. [2] Nhà ông có lúc không có gạo thổi cơm chiều Bữa chiều không cơm, viết đùa ghi việc. Ông bị bệnh đái ra máu, chạy chữa cả năm mới khỏi. Chi tiết chép theo Thơ văn Cao Bá Quát, tr. 235. [3] Năm Cao Bá Quát rời đi nhận chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai ở đây ghi theo Thơ văn Cao Bá Quát Thêm một chứng cứ nữa là trước khi đi, Cao Bá Quát có viết bài đề cuối tập thơ của Tùng Thiện Vương, và ông đã ghi là năm Tự Đức thứ 3 tức 1850. Có sách ghi rất khác Đại Nam chính biên liệt truyện tr. 1052 và Phạm Thế Ngũ tr. 445 ghi năm 1854. Xuân Diệu ghi năm 1851 tr. 13, Nguyễn Lộc ghi năm 1852 Từ điển văn học, bộ mới, tr. 209. [4] Trích Trần tình văn Chú tôi tức Cao Bá Quát cậy tài càn rỡ, vốn tính ngông cuồng, thường bè bạn với bọn rượu chè, kết giao với con buôn, tiếng là ở nhà nuôi mẹ, nhưng thật ra đạo thần tôn vẫn còn thiếu sót. Vả lại túng thiếu đâm ra liều, xoay ra lối kinh doanh trục lợi. Bạn bè khuyên răn thì cãi lại, anh tức Cao Bá Đạt ngăn bảo thì xé cả thư. Cho nên bạn bè vì thế mà tuyệt giao, gia đình vì thế mà sinh bất mục… [5] Sừng ngựa không mọc Mã giác bất sinh Theo Sử ký, Thái tử Đan nước Yên phải sang Tần làm con tin. Vua Tần bảo Chỉ khi nào quạ trắng đầu, ngựa mọc sừng mới cho về. Xem nguyên tác bằng chữ Hán trong Thơ Tùng Thiện Vương sách đã dẫn, tr. 51. Cũng theo sách này thì bài thơ không được in trong Thương Sơn thi tập. Sở dĩ tồn tại là vì trước đó nó đã được đưa vào tập Phong nhã thống biên do vua Tự Đức sai soạn để tặng cho sứ bộ nhà Thanh. [6] Nguyễn Văn Siêu 1795-1872 và Cao Bá Quát đã được vua Tự Đức khen ngợi qua câu thơ Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, có nghĩa văn như ông Siêu và ông Quát, thì đến văn đời Tiền Hán cũng không có giá trị gì. Sách tham khảo chính -Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968 -Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn học giản ước tân biên quyển trung. Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1963. -Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam quyển thượng. Nxb Trình bày, không ghi năm xuất bản. -Nhiều người soạn, Từ điển Văn học bộ mới, mục từ do Nguyễn Lộc soạn. NXb Thế giới, 2004. -Nhiều người soạn, Thơ văn Cao Bá Quát. Nxb Văn học, 1984. -Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam tập 2. Nxb Văn học, 1987. Phần II Khởi nghĩa Cao Bá Quát Khởi nghĩa Cao Bá Quát hay Khởi nghĩa Mỹ Lương sử cũ gọi là Giặc Châu Chấu [1] là tên gọi một cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Cự làm Minh chủ, Cao Bá Quát 1809-1855 làm Quốc sư, đã nổ ra tại Mỹ Lương thuộc Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội, Việt Nam. Theo GS. Nguyễn Phan Quang, tuy cuộc khởi nghĩa chỉ tồn tại trong khoảng hai năm 1854-1856, nhưng chứng tỏ rằng cho đến giữa thế kỷ 19, phong trào chống triều Nguyễn không hề lắng dịu và sẽ còn tiếp tục trong những năm sau đó với khởi nghĩa Cai Tổng Vàng, khởi nghĩa Chày Vôi…. cảnh Đến giữa thế kỷ 19, nền kinh tế Việt Nam hết sức suy đốn trì trệ. Thêm vào đó, là các nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giới địa chủ, sự tham nhũng của nhiều quan lại, chế độ tô thuế và lao dịch khắc nghiệt; là các nạn bão lụt, hạn hán, ôn dịch và vỡ đê xảy ra luôn. Tất cả đã đẩy người dân lao động xuống tận đáy khốn cùng. Một bài vè lưu hành ở thời vua Tự Đức có đoạn mô tả cảnh đói khổ, lưu vong của dân như sau trích Cơm thì chẳng có Rau cháu cũng không Đất trắng ngoài đồng Nhà giàu niêm kín cổng Còn một bộ xương sống Vơ vất đi ăn mày Ngồi xó chợ lùm cây Qua kêu vang bốn phía Xác đầy nghĩa địa Thây thối bên cầu Trời ảm đạm u sầu Cảnh hoang tàn đói rét Dân nghèo cùng kiệt Kẻ lưu lạc tha phương Người chết chợ chết đường… …Là cái thời Tự Đức. Cuối cùng những nỗi hờn căm vì bị bốc lột, bị áp bức…biến thành những làn sóng đấu tranh quyết liệt của nhân dân lao động ở nhiều miền trên đất nước, chống lại chế độ thống trị của nhà Nguyễn. Chỉ tính riêng khoảng thời gian từ 1847 đến 1862, tức trước khi vua Tự Đức ký hòa ước nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, đã có hơn 40 cuộc nổi dậy, trong đó có cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát 1854-1856 ở Hà Tây nay thuộc Hà Nội là tiêu biểu nhất. II. Nguyên nhân trực tiếp Năm 1850 [2], không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát phải rời kinh đô Huế đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai Sơn Tây. Một lần nữa, ông lại trở về quê để cùng khổ với dân, để suy nghĩ thêm về những chính sách hà khắc của triều đình và thêm quyết tâm đánh đổ triều đình. Giữa năm 1853, lấy cớ về nuôi mẹ già, ông xin thôi dạy học. Vào tháng 6, tháng 7 năm ấy tại miền Bắc, châu chấu bay mù trời, lúa má bị chúng cắn sạch, nạn đói hoành hành, mọi người đều ta thán. Theo một số nhà nghiên cứu thì nhân lúc ấy, Cao Bá Quát đã đứng lên tụ tập nhân dân hoặc tham gia lãnh đạo bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa chống Nguyễn tại Hà Nội. Đề cập đến vấn đề này, GS. Nguyễn Phan Quang viết Thực ra, cũng như bao sĩ phu khác, Cao Bá Quát vào đời bằng con đường khoa cử và muốn giúp đời bằng con đường làm quan, nhưng càng ngày ông càng cảm thấy bế tắc. Hàng ngày, ông nhìn thấy bao cảnh đói khổ của nông dân và bất công của xã hội. Tuy có lúc ông tỏ ra bi quan chán nản, nhưng vốn tính kiên cường, ông không thể tìm lối thoát nào khác ngoài con đường vùng dậy đấu tranh. Và cuộc khởi nghĩa do chính ông vận động và tổ chức là một hệ quả tất yếu. III. Diễn biến Chuẩn bị Phần thì phẫn chí, phần thì thương dân như vừa nêu sơ lược ở phần trên, Cao Bá Quát bí mật liên hệ với những thổ mục người dân tộc ở Tây Bắc là Vũ Kim Thanh, Đinh Công Mỹ, Bạch Công Chân… Rồi dựa vào lòng người còn tưởng nhớ tới nhà Lê, ông suy tôn một người thuộc dòng dõi ấy làm minh chủ đó là Lê Duy Cự, còn tự mình lãnh chức Quốc sư. Để nêu rõ ý nghĩa của cuộc nổi dậy, ông cho thêu hai dòng chữ lớn trên lá cờ, đó là Bình Dương, Đồ Bản vô Nghiêu Thuấn; Mục Dã, Minh điều hữu Võ Thang. Tạm dịch Ở Bình Dương và Đồ Bản không có những ông vua tốt như vua Nghiêu, vua Thuấn; Thì ở Mục Dã, Minh Điều phải có những người như Võ Vương, Thành Thang nổi dậy. Chẳng bao lâu sau, ông tập hợp được một lực lượng đông đảo, chủ yếu là những nông dân nghèo khổ ở miền xuôi và trung du. Ngoài ra, còn có mặt của giới trí thức, giới võ quan và lang đạo Mường, như Tiến sĩ năm 1838 Đinh Nhật Thận người Nghệ An, nguyên là Hàn lâm biên tu, Vũ Văn Đống, Vũ Văn Úc cả hai đều là người Hưng Yên, học trò của Cao Bá Quát, Nguyễn Kim Thanh hào mục, Đinh Công Mỹ Lang đạo Mường, Nguyễn Hữu Vân Suất đội thủy vệ Hà Nội, Bạch Công Trân Suất đội cơ Sơn Dũng tỉnh Sơn Tây… Công cuộc còn đang trong giai đoạn chuẩn bị, thì bị người tố giác. Vua Tự Đức liền lệnh cho Tổng đốc Hà Ninh Lâm Duy Hiệp GS. Vũ Khiêu ghi Lâm Duy Thiết, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên Nguyễn Bá Nghi, hiệp cùng Tổng đốc Bắc Ninh là Nguyễn Quốc Hoan đi truy bắt “đảng nghịch”. Để nhanh chóng đánh dẹp, nhà vua còn phái Vệ úy Hoàng thành Huế đem ngay một vệ lính tuyển phong, 15 võ sinh cùng 20 súng thần cơ ra ngay Hà Nội để hỗ trợ việc tiễu phạt. 3. 2 Đối đầu Trước cục diện này, Cao Bá Quát đang ở Bắc Ninh vội trở về Sơn Tây bàn ngày khởi sự. Do lực lượng ở các tỉnh chưa được chuẩn bị chu đáo, nên khi lệnh khởi nghĩa được phát ra thì chỉ có nghĩa quân ở Mỹ Lương huyện Mỹ Lương tỉnh Sơn Tây, nay là phần đất phía Tây huyện Chương Mỹ Hà Nội và đất huyện Kim Bôi Hòa Bình do Cao Bá Quát và Đinh Công Mỹ trực tiếp chỉ huy là kịp nổi lên. Trận mở đầu xảy ra vào tháng 11 âm lịch 1854 tại Ứng Hòa. Sau khi đánh chiếm được phủ thành này, Cao Bá Quát cho quân tiến lên hướng Bắc đánh chiếm luôn huyện lỵ Thanh Oai cả hai đều thuộc Hà Nội. Nhưng chiếm giữ hai lỵ sở trên chỉ trong mấy ngày, sau đó ông cho chuyển hướng tấn công nơi khác. Tháng 12 âm lịch 1854, cánh trung quân do Đô thống Nguyễn Văn Tuân chỉ huy từ Thanh Oai tiến đến Hà Nội, thì gặp quân triều đón đánh ở khu vực xã Đồng Dương và Thạch Bích cả hai đều thuộc huyện Thanh Oai thời nhà Nguyễn, nay là Đồng Mai Hà Đông và Bích Hòa Thanh Oai. Cuộc chiến diễn ra ác liệt, quân của đôi bên đều bị chết nhiều. Nhưng vì yếu kém hơn về người và vũ khí, nên sau đó cả đoàn nghĩa quân bị đánh tan, các thủ lĩnh là Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đình Huấn, Hoàng Đình Nho, Lê Văn Trường…đều lần lượt bị bắt. Cũng khoảng thời gian này, một cánh nghĩa quân khác đang trên đường tiến đánh huyện lỵ Kim Bảng nay thuộc tỉnh Hà Nam, thì bị đoàn quân của Lãnh binh Lê Tố đón đánh tan ở chân núi Quyển Sơn bên bờ sông Đáy, cách huyện lỵ trên khoảng 4 km. Còn Cao Bá Quát sau khi cho quân rút khỏi Ứng Hòa và Thanh Oai, liền tiến đánh huyện Yên Sơn Yên Sơn thời nhà Nguyễn và vây phủ thành Quốc Oai. Đốt phá phủ thành xong, nghĩa quân đón đánh quân triều do Tổng đốc Nguyễn Bá Nghi chỉ huy. Cuộc giao tranh nổ ra ác liệt tại làng Sài Sơn, cách phủ thành 4 km. Rồi cũng vì không cân sức, quân khởi nghĩa buộc phải rút lui về huyện Phúc Thọ thuộc phủ Quảng Oai. Bị truy đuổi, Cao Bá Quát lại cho quân vượt sông Hồng sang phủ Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây thời nhà Nguyễn, nay thuộc Vĩnh Phúc. Tiếp theo, sau một lần tấn công đốt phá phủ thành Tam Dương ở địa phận xã Tích Sơn ngoại vi thị xã Vĩnh Yên ngày nay, cánh quân chủ lực do họ Cao chỉ huy đã giảm sút nhiều, nên phải quay về Mỹ Lương hội quân với thủ lĩnh Bạch Công Trân, rồi cùng lo chấn chỉnh đội ngũ, lấy nghĩa binh miền núi bổ sung lực lượng. Trong khi đó, nhà vua điều thêm 500 lính từ Thanh Hóa đến Sơn Tây hỗ trợ, lại cử thêm Đô đốc Nguyễn Trọng Thao đang làm nhiệm vụ phòng giữ kinh thành Huế, ra Hà Nội trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp, và còn xuống dụ treo thưởng rằng Không kể quan, quân, dân, dõng hoặc người theo bọn giặc; người nào bắt sống được Cao Bá Quát đem giải quan thì thưởng cho 500 lạng bạc, giết chết thì thưởng 300 lạng, lại còn thưởng thụ chức hàm để khuyến khích. Tàn cuộc Sau khi bổ sung lực lượng chủ yếu là người Mường và người Thái ở vùng rừng núi Mỹ Lương, vào tháng Chạp năm Giáp Dần tháng Chạp năm này rơi vào năm dương lịch 1855[9], Cao Bá Quát đem quân tấn công huyện lỵ Yên Sơn lần thứ hai. Phó lãnh binh Sơn Tây Lê Thuận đem quân nghênh chiến. Cuộc đối đầu đang hồi quyết liệt tại vùng núi Yên Sơn, theo sử nhà Nguyễn, thì Cao Bá Quát bị Suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Tiếp theo, thủ lĩnh Nguyễn Kim Thanh và Nguyễn Văn Thực cũng lần lượt sa vào tay đối phương sau, cả hai đều bị chém chết. Ngoài những thiệt hại này, hơn trăm nghĩa quân bị chém chết và khoảng 80 nghĩa quân khác bị bắt. Nghe tin đại thắng, vua Tự Đức lệnh cho ban thưởng và cho đem thủ cấp của nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống sông. Mặc dù mất Quốc sư và nhiều thủ lĩnh, nhưng nghĩa quân vẫn cố hoạt động thêm một vài năm nữa. Trần Trọng Kim viết Cao Bá Quát chết đi rồi, Lê Duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc…. Và sau lần tiến đánh không thành công ở huyện lỵ Phù Cừ thuộc Hưng Yên, đến năm 1856, đội ngũ nghĩa quân đã gần như tan rã hẳn. Nhìn lại, cuộc khởi nghĩa chỉ mạnh mẽ ở cuối năm 1854 đến đầu năm 1855. Sau những thắng lợi ban đầu ở Ứng Hòa, Thanh Oai, thì nghĩa quân bị đàn áp và khủng bố dữ dội, nên liên tiếp chịu nhiều thiệt hại. Sau trận thua ở Yên Sơn, Cao Bá Quát bị giết chết, sức chiến đấu của nghĩa quân kể như không còn gì. Trận Phù Cừ chỉ phản ánh những cố gắng cuối cùng của nghĩa quân mà thôi. IV. Lý do thất bại Ở nửa đầu thế kỷ 19, cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, là một trong vài cuộc nổi dậy lớn, tuy ngắn ngủi nhưng có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Tuy nhiên, như nhiều cuộc nổi dậy trước và sau nó, mặc dù quyết liệt, nhưng vẫn đi đến thất bại. Theo nghiên cứu chưa đầy đủ, thì đây cũng chỉ là một cuộc nổi dậy mang đậm tính địa phương riêng rẽ, tổ chức chưa được chu đáo, chiêu bài phò Lê đã mất tính chất hấp dẫn, thiếu một phương thức chiến đấu, thế lực hào mục yếu ớt, vũ khí hãy còn thô sơ,…Vì lẽ ấy, cuộc khởi nghĩa sớm bị đập tan bởi sự trấn áp mạnh mẽ bằng quân sự của triều Nguyễn. V. Vài vấn đề liên quan Tuy thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương và cái chết của Cao Bá Quát cũng đã gây được một tiếng vang lớn, và đã làm xúc động nhiều người. Vì vậy, có nhiều giả thuyết và giai thoại liên quan đến cuộc đời ông. Về vai trò Cao Bá Quát trong cuộc khởi nghĩa Minh Lương, hiện tồn tại hai ý kiến •Một, ông chính là người khởi xướng. Theo ý này có Vũ Khiêu, Nguyễn Phan Quang,… •Hai, ông chỉ là người đi theo hoặc được mời rồi cùng tham gia lãnh đạo. Theo ý này có Trần Trọng Kim, Nguyễn Lộc, Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Anh,… Một vấn đề nữa, đó là Có người cho rằng Cao Bá Quát nổi dậy không phải vì thương dân mà chỉ vì bất mãn cá nhân, trong số này có sử gia Trần Trọng Kim. Ông viết Cao Bá Quát có tiếng là người văn học giỏi ở Bắc Kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy Lê Duy Cự xưng là Quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn Tây và Hà Nội. Có người lại cho rằng ông làm loạn là do bất mãn vì địa vị quan điểm của Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, là do ông có tính tình ngỗ ngược, hay chửi đời, bị nhiều người ghét quan điểm của Cao Bá Nhạ trong Trần tình văn [3], của nhà văn Trúc Khê trong Cao Bá Quát danh nhân truyện ký, là do ông bị ám ảnh “cái mộng đế vương” không rõ tác giả, tập san Bách Khoa số 142, ra ngày 15 tháng 12 1962 tại Sài Gòn. Có người lại cho rằng Cao Bá Quát không có ý “làm phản”, mà chỉ là người bị Tổng Đốc Nguyễn Bá Nghi vu cáo, vì hiềm riêng [4]. Trong số này có Kiều Oánh Mậu, Phạm Văn Sơn. Quan điểm của GS. Vũ Khiêu Chỉ có thể hiểu Cao Bá Quát và đánh giá đúng tư tưởng và hành động của ông trên cơ sở phân tích nguồn gốc xã hội và diễn biến trong cuộc đời ông. Cao bá Quát là một trí thức xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo. Những cảnh đói rét khổ cực ở khắp nơi hàng ngày day dứt ông làm cho ông phải luôn suy nghĩ mong tìm ra cách giải quyết. Chế độ phong kiến hà khắc, vua quan ngày một tỏ ra bất tài và nguy cơ mất nước cho phương Tây đã khiến ông căm ghét triều đình nhà Nguyễn. Từ chỗ phê phán và phản kháng nó điều này rất dễ thấy trong thơ văn ông, ông đã tiến tới nổi dậy đánh đổ nó… Đây cũng phải là sự “nổi loạn”, mà chính là sự phản kháng bắt nguồn từ phẩm chất của ông. Thập tải luân giao cầu cổ kiếm, Nhất sinh đê thủ bái hoa mai Có nghĩa Mười năm bàn đạo giao du, khó như tìm gươm cổ, Một đời ta chỉ cúi đầu sùng bái hoa mai. Hai câu đối rất được truyền tụng này của Cao Bá Quát đã phản ánh đầy đủ tinh thần phản kháng của ông. Chúng vừa nói lên khí phách anh hùng, quyết tâm đứng lên trừ bạo cứu dân, vừa bộc lộ một tâm hồn trong sạch thanh cao, đẹp như hoa mai trắng. Về một số giai thoại Có người vì mến phục chí khí Cao Bá Quát, mà phao lên rằng trong nhà ngục, ông có làm cặp đối Một chiếc cùm lim chân có đế/ Ba vòng xích sắc bước thì vương. Hoặc trước khi thụ án, họ Cao còn ngâm Ba hồi trống giục mồ cha kiếp/ Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời. Cũng có người phao lên rằng khi họ Cao bị giải về Hà Nội, vì muốn cứu ông, mà ai đó đã đem một người tù phạm có nét mặt giống ông để thay vào, rồi đưa ông lên Lạng Sơn, giả làm nhà sư để lánh nạn. Lại có người cho rằng ông không bị hành hình ở khu vực Hàng Hành Hà Nội ngày nay, mà là ông bị chém chết ở làng Phú Thị với hai con Bá Phùng, Bá Thông và nhiều quyến thuộc. Trước khi soạn quyển Thơ văn Cao Bá Quát xuất bản năm 1984, nhóm tác giả trong đó có GS. Vũ Khiêu, đã về làng Phú Thị, đến phủ Quốc Oai và vùng đất Mỹ Lương. Mặc dù, sau cuộc khởi nghĩa, cả dòng họ ông bị quan quân săn đuổi, Văn thơ ông bị thiêu hủy và cấm tàng trữ…nhưng qua những gì còn sót cũng đủ để GS. Vũ Khiêu kết luận rằng Những câu chuyện trên đây đều không có căn cứ, vì đã được dựng lên do những tình cảm khác nhau của người ta đối với ông mà thôi. Cao Bá Quát tử trận là điều có thật, đúng như sử nhà Nguyễn đã chép. Và không phải ngẫu nhiên mà triều đình nhà Nguyễn đã khen thưởng và thăng chức Cai đội cho Đinh Thế Phong, người đã bắn chết ông. Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn Chú thích [1] Sử gia Trần Trọng Kim giải thích Nhân vì mùa tháng năm ấy 1854 ở vùng tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây có nhiều châu chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu chấu Việt Nam sử lược, tr. 501. [2] Năm Cao Bá Quát rời đi nhận chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai ở đây ghi theo Thơ văn Cao Bá Quát Thêm một chứng cứ nữa là trước khi đi, Cao Bá Quát có viết bài đề cuối tập thơ của Tùng Thiện Vương, và ông đã ghi là năm Tự Đức thứ 3 tức 1850. Có sách ghi rất khác Đại Nam chính biên liệt truyện tr. 1052 và Phạm Thế Ngũ tr. 445 ghi năm 1854. Xuân Diệu ghi năm 1851 tr. 13, Nguyễn Lộc ghi năm 1852 Từ điển văn học, bộ mới, tr. 209. [3] Trong Trần tình văn của Cao Bá Nhạ có đoạn “Chú tôi tức Cao Bá Quát cậy tài càn rỡ, vốn tính ngông cuồng, thường bè bạn với bọn rượu chè, kết giao với con buôn, tiếng là ở nhà nuôi mẹ, nhưng thật ra đạo thần tôn vẫn còn thiếu sót. Vả lại túng thiếu đâm ra liều, xoay ra lối kinh doanh trục lợi. Bạn bè khuyên răn thì cãi lại, anh tức Cao Bá Đạt ngăn bảo thì xé cả thư. Cho nên bạn bè vì thế mà tuyệt giao, gia đình vì thế mà sinh bất mục” . Tuy nhiên, qua cuộc đời và số thơ văn còn sót lại của Cao Bá Quát, thì không thấy con người ông có gì tệ bạc như cháu ông đã viết. Xem chi tiết ở trang Cao Bá Quát. [4] Tương truyền, một hôm Cao Bá Quát ngồi uống rượu với Tùng Thiện Vương, thì có Nguyễn Bá Nghi đến vái chào trước khi trở ra Bắc. Họ Cao không những không lui ra chỗ khác, mà sau đó còn nói rằng “Nguyễn Bá Nghi chẳng biết chính sự thế nào, chứ văn thì còn dốt lắm”. Nghe được, ông Nghi đâm ra thù họ Cao lược theo sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện của Kiều Oánh Mậu. Cùng quan điểm này có nhà sử học Phạm Văn Sơn và nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật Cái án Cao Bá Quát đăng trên tạp chí Bông Lúa. Theo Phạm Văn Sơn, tr. 158. Sách tham khảo -Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968. -Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 5, tập thượng. Tủ sách sử học Việt Nam xuất bản, Sài Gòn, 1961. -Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn học giản ước tân biên quyển trung. Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1963. -Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam 1427-1858, Quyển 2, tập 1. Nxb Giáo dục, 1977 -Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ 19 1802-1884. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2002. -Nhiều người soạn, Thơ văn Cao Bá Quát. Nxb Văn học, 1984. -Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam quyển thượng. Nxb Trình bày, không ghi năm xuất bản. -Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam [tập 2]. Nxb Văn học, 1987. -Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb KHXH, 1992. -Nhiều người soạn, Từ điển Văn học bộ mới, mục từ do Nguyễn Lộc soạn. NXb Thế giới, 2004. -Nhiều người soạn, Danh nhân đất Việt quyển 3. Nxb Thanh Niên, 1995. -Thái Vũ, Chuyện hay nhớ mãi. Nxb Thuận Hóa, 1987. Nguồn bài đăng Tại đây, Cao Bá Quát là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa lớn, sử gọi là khởi nghĩa Cao Bá Quát 1854 - 1855. Triều đình Tự Đức 1848 - 1883 thẳng tay đàn áp và Cao Bá Quát đã anh dũng hy sinh vì nghĩa lớn. Về cái chết của Cao Bá Quát, người xưa cắt nghĩa rất nhiều cách khác nhau. Một trong số những cách cắt nghĩa đó đã được sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện ghi lại như sau “Nguyên xưa, Cao Bá Quát làm gia sư cho quan Tri huyện Tiền Hải1. Viên Tri huyện này là Tú tài xuất thân, về hưu với chức Tri Huyện, được làm Thủ Chỉ xã Cửu Cao, huyện Văn Giang2. Xã ấy có viên Cai Tổng tên là Khản, vẫn tỏ ý không phục Tri huyện hồi hưu đang giữ chức Thủ Chỉ nên mỗi khi có việc làng, hắn thường hay kiếm cớ cản trở hoặc phá rối. Viên Tri huyện hồi hưu không sao chịu nổi, bèn bàn mưu tính kế với gia sư là Cao Bá Quát. Cao Bá Quát bèn sai một người học trò nghèo đến nhà Cai Tổng Khản xin ăn. Cai Tổng thử tài thơ văn, thấy tên học trò tinh thông hết cả. Nhân thấy Cai Tổng vừa sửa chữa cổng nhà, người học trò bèn dâng tặng câu đối rằng Đãng bình chính trực khan vương đạo, Cao đại quang minh thị ngã tâm. Nghĩa là Bằng phẳng, thẳng ngay là vương đạo, Cao lớn, quang minh ấy lòng ta. Viên Cai Tổng bèn lập tức cho để đôi câu đối này ở ngay phía ngoài cổng. Một hôm theo lệ làng, Cai Tổng Khản phải đem cỗ xôi gà ra đình làng để làm lễ. Mâm lễ vật được che bằng lọng màu vàng. Tri Huyện hồi hưu liền cho người cáo giác với quan trên là Cai Tổng lộng quyền, dám dùng lọng màu vàng để che mình, và câu đối trước cổng được đưa ra để làm bằng chứng cho sự ngạo mạn của viên Cai Tổng. Tri Huyện hồi hưu còn bịa đặt ra nhiều chuyện nữa, nên viên Cai Tổng bị khép vào tội bị chém đầu. Trước khi bị đem ra hành hình, viên Cai Tổng dặn vợ mình rằng, khi chôn hắn, phải bỏ thật nhiều giấy bút trong quan tài, và nói - Tội oan ức của ta giờ đây không thể biện bạch vào đâu được, nhưng khi xuống âm phủ, thế nào ta cũng quyết làm sáng tỏ. Ta nguyền rằng, kẻ nào bày mưu hãm hại ta rồi cũng sẽ phải chết như ta. Về sau, gia đình Cai Tổng và gia đình Tri Huyện hồi hưu đều bị lụn bại, Cao Bá Quát cũng tử nạn nên người ta cho đó là sự báo oán của viên Cai Tổng xã Cửu Cao. Thuyết này thật hoang đường, không thể tin hết được”. Lời bàn Tác giả BẢN TRIỀU BẠN NGHỊCH LIỆT TRUYỆN đã kết luận chí phải, bởi việc trong chuyện rất hợp với việc của Tri huyện xuất thân Tú Tài, với Cai Tổng xã Cửu Cao nhưng lại xa lạ với nhân cách Cao Bá Quát. Song le, tác giả của BẢN TRIỀU BẠN NGHỊCH LIỆT TRUYỆN hẳn là chỉ mới không tin ở sự báo oán nên mới phán như vậy, chớ mọi sự còn lại, ông đều tin. Cổ nhân và hậu thế, khác nhau chính là ở chỗ này. Ít nhiều mặc dầu, khi còn đương chức Tri huyện của huyện Tiền Hải, hẳn quan Tri huyện cũng đã từng xử kiện, từng lên mặt đạo đức và kỷ cương để trị kẻ nào dám vu oan giá họa, thế mà khi hồi hưu, kẻ vu oan giá họa hiểm độc và tàn ác vào hàng bậc nhất lại chính là quan. Ngao ngán thay! Cai Tổng Khản xã Cửu Cao quả đúng là… tầm nhìn không vượt ra khỏi xã. Quan hồi hưu thì quan vẫn cứ là quan, không biết giữ lễ với quan, tất nhiên chỉ có thiệt. Thuở ấy người làm quan gọi là người đi chăn dân hay đi trị dân. Quan Tri huyện cũng từng có thừa thãi kinh nghiệm của một đời… trị dân, thế thì cản trở quan đâu phải là chuyện dễ. Cai Tổng Khản còn nuôi chí kiện cáo dưới âm phủ, hóa ra, đến chết vẫn không nhận ra được rằng quan bao giờ cũng là quan. Nếu quả có âm hồn, thì hồn quan vẫn cứ là hồn quan, hồn Cai Tổng vẫn cứ là hồn Cai Tổng, húc vào hồn quan nào có khác gì húc đầu vào đá đâu. Cao Bá Quát bị giết. Cái chết của con người khả kính này được người đương thời cắt nghĩa theo cách của người đương thời. Ông chỉ có thể chết vì ông là nạn nhân của một cuộc báo oán. Chỉ có hồn ma của những kẻ quỷ quyệt mới đang tâm hãm hại Cao Bá Quát chớ dương thế này lẽ đâu lại có chuyện xót xa kia. Hình như cổ nhân muốn nói như vậy. Bao điều trớ trêu, cứ việc đổ hết cho âm phủ là hết chuyện. Dân xưa mà. ___________ 1. Nay huyện này thuộc tỉnh Thái Bình. 2. Thủ Chỉ là là chức đứng đầu hàng chức sắc trong xã. Chắc hẳn mọi người cũng nghe câu “ nét chữ, nết người” nhiều bạn sẽ bảo làm gì có việc liên quan đó. Bây giờ mình viết chữ không đẹp, chữ nghệch ngoạt nhưng tôi làm việc vẫn cẩn thận, chuẩn xác và vẫn tỉ mỉ thì sao. Hồi đi học các bạn có nghe qua hay được giáo viên của mình giải thích và giảng dạy câu chuyện “Văn hay chữ tốt” bên dưới. Qua câu chuyện này chắc hẳn ai cũng phải suy ngẫm lại câu nói “ người có hoa tay viết, vẽ mới đẹp làm việc gì cũng dễ dàng”. Thế nhưng đâu có gì là dễ dàng nếu ta không cố gắng, không có gì là thành công nếu ta không nổ lực. Mọi vật sinh ra đều có cái duyên của nó nhưng nếu bạn không cố gắng trau dồi, rèn luyện thì cái duyên, cái tài đó cũng dần dần mất đi. Cứ ví như, bạn viết chữ rất đẹp ngày xưa, cái thời học tiểu học bạn được đi thi vở sạch chữ đẹp, bạn được cô giáo tuyên dương, lòng ngời ngợi đến giờ vẫn tự hào. Nhưng mấy ai bây giờ còn giữ được nét viết năm ấy, mấy ai vì nét đẹp ấy mà ngày ngày rèn luyện để trở nên hoàn thiện hơn, bay bổng hơn và tạo nên giá trị cho bản thân hơn. Ngoài ra chắc hẳn mọi người cũng nghe câu “ nét chữ, nết người” nhiều bạn sẽ bảo làm gì có việc liên quan đó. Bây giờ mình viết chữ không đẹp, chữ nghệch ngoạt nhưng tôi làm việc vẫn cẩn thận, chuẩn xác và vẫn tỉ mỉ thì sao.“Nghiên cứu của trường Đại học College London tiến hành đối với gần người đã phát hiện ra những ảnh hưởng tích cực của hoạt động luyện viết chữ đẹp. Có tới 76% người tham gia khẳng định rằng khi họ tập trung luyện nét chữ, họ cảm thấy bớt lo lắng, bớt suy nghĩ mông số người tham gia nghiên cứu chia sẻ rằng họ muốn có một thú vui đặc biệt để khiến mình cảm thấy tự tin hơn, và hơn 50% sử dụng hoạt động viết chữ đẹp như một công cụ để tĩnh tâm sư Daisy Fancourt, người đứng đầu nghiên cứu về tác dụng của nghệ thuật viết chữ đẹp tiến hành tại trường Đại học College London cho hay “Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy những tác động nhận thức mà hoạt động thư pháp có thể tạo ra đối với bộ não, giúp điều chỉnh lại tâm trạng cảm xúc khi chúng ta tham gia vào những hoạt động có tính sáng tạo”.Một số bệnh viện ở Đài Loan trước đây cũng đã từng đưa thư pháp vào hoạt động trị liệu tâm lý để giúp những bệnh nhân có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Hoạt động viết thư pháp giúp não hoạt động tốt hơn, giảm trạng thái trầm cảm và những rối loạn tâm thần.” Bạn nghĩ khi làm 1 công việc mà tinh thần thoải mái thì công việc sẽ diễn ra như thế nào. Bạn nghĩ khi tinh thần luôn ổn định, cuộc sống luôn lạc quan thì nết của bạn sẽ ra sao. Người xưa có câu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” bạn xinh đẹp tài trí nhưng cái nết cái đạo đức bạn không có, suốt ngày nóng tính vội vàng, cộc cằn lỗ mãn thì biết bao giờ mới thành công. Ngược lại, người luôn lạc quan luôn mỉm cười với mọi công việc thì dù khó khăn đến đâu họ cũng bình tĩnh mà giải quyết, bình tĩnh mà nhẹ nhàng nhờ sự giúp đỡ. Thế mới nói chữ đẹp là 1 lợi thế là 1 đứa con tinh thần giúp ta rèn luyện chữ “NHẪN” của mỗi người chúng ta. Hãy nhanh nhanh bắt đầu việc luyện chữ của mình dưới sự hướng dẫn của giảng viên đầy kinh nghiệm và chữ khi nhìn vào chỉ biết suýt Sưu tầm và biên soạn

câu chuyện về cao bá quát