hài cải lương và các bài viết liên quan đến đề tài này. The Water Monster 2019 | Phim chiếu Rạp Mới Nhất 2021 | Thuyết minh | phim chiếu rạp | Tổng hợp những bộ phim hay nhất. Chí Phèo Ngoại Truyện ||Phim Hài Chiếu Rạp Việt Nam Hay Nhất 2020 Thu Trang Tiến Luật. | phim4400
Như việc cải tiến, sắp xếp người bệnh nam, nữ được nằm riêng phòng, hay có vách ngăn, tấm rèm che khi phải bộc lộ cơ thể để khám và điều trị hoặc tiêu chí phải có nhà cầu (nhà nối giữa các nhà) có mái che giữa các khu nhà cũng đã giúp cho hàng ngàn người bệnh
Tình hình thực hiện chính sách tiền lương và tạo nguồn cải cách tiền lương năm 2022 - Biên chế, quỹ lương, các khoản phụ cấp theo lương và các khoản đóng góp theo chế độ quy định (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn).
Chiều 28/5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì cuộc họp Thường trực Chính phủ với Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công.
Không ai có thể thuyết phục công chúng và các nhà hoạch định chính sách rằng một quốc gia phải tăng tuổi nghỉ hưu chỉ vì quỹ lương hưu đang dần cạn kiệt. Thứ hai, cần nhìn vào những lợi ích lớn hơn của cải cách dành cho tất cả mọi người và cho xã hội nói chung
Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Bài văn mẫu Thuyết minh về cải lương - nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam Bộ Việt Nam dưới đây là sự am hiểu sâu sắc và phong phú của người viết về một loại hình nghệ thuật sân khấu vô cùng tiêu biểu ở miền Nam Bộ Việt Nam mang tên "cải lương", các bạn cùng theo dõi để có sự hiểu biết về loại hình nghệ thuật độc đáo này. Bài viết liên quan Thuyết minh về một loại hình ca nhạc hay sân khấu mà anh chị yêu thích Thuyết minh về nghệ thuật Múa rối nước Thuyết minh về một làng nghề truyền thống, một đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc Phân tích, đánh giá chủ đề và nghệ thuật của một màn kịch Đề bài Thuyết minh về cải lương - nghệ thuật sân khấu truyền thống của Nam Bộ, Việt NamBài văn mẫu Thuyết minh về cải lương - nghệ thuật sân khấu truyền thống của Nam Bộ, Việt NamBài mẫu Thuyết minh về cải lương - nghệ thuật sân khấu truyền thống của Nam Bộ, Việt NamNhắc tới Nam Bộ, Việt Nam, người ta hẳn sẽ nhớ ngay tới những con sông dài, những con kênh chằng chịt, những vườn cây trái trĩu quả, những phiên chợ nổi tấp nập kẻ bán người mua, những con người miền Nam thật thà, chất phác, giản dị vô cùng trong chiếc áo bà ba nâu. Và chắc hẳn, nếu ai đã từng tới thăm nơi đây, sẽ không thể nào quên được những làn điệu dân ca, vọng cổ và đặc biệt là làn điệu cải lương - nghệ thuật sân khấu truyền thống của người dân Nam như miền Bắc có những làn điệu dân ca quan họ trĩu nặng tình yêu, miền Trung có những câu hò nghe tha thiết, thì ở miền Nam, người ta lại có thể rạo rực trong lòng khi nghe tới những câu cải lương thấm đẫm tình đất và tới cải lương, hẳn không ai còn xa lạ. Cải lương là một làn điệu dân ca của người Nam Bộ. Nó là một loại hình kịch hát được hình thành trên cơ sở của nhạc đờn ca tài tử và dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long. Cải lương hiểu theo nghĩa từ Hán Việt có nghĩa là "sửa đổi để cho tốt hơn". Chính dựa trên những nguyên tắc và cơ sở từ lối hát truyền thống trước, đã hình thành nên một làn điệu dân ca mới, một sân khấu truyền thống mới in đậm hơn dấu ấn của người Nam lương nổi tiếng là thế nhưng lịch sử và nguồn gốc ra đời của nó vẫn còn là đề tài tranh luận của nhiều học giả nổi người cho rằng, cải lương xuất phát, manh nha từ những năm đầu thế kỉ hai mươi, từ những năm 1916 hoặc 1918. Thế nhưng cái tên chính thức "cải lương" thì lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1920 trong gánh hát Tân Thịnh với câu liên đối"Cải cách hát theo tiến bộLương truyền tuồng tích sánh văn minh"Cứ thế, cải lương ra đời và phát triển một cách hưng thịnh trong những năm đầu của thế kỉ hai mươi và lưu truyền tới tận bây giờ. Cải lương đã đi vào đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ trong từng câu hát, từng điệu hò đối đáp nhau. Nó đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Nam thuật sân khấu truyền thống - cải lương nổi tiếng đến như vậy nhưng đặc điểm của cải lương là gì thì ít ai có thể hiểu ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu đó Nam Bộ đôi ba câu cải lương vọng để hiểu được ý nghĩa của từng câu chữ, cũng như cách dùng từ, dựng sân khấu, đề tài thì chúng ta khó có thể nắm bắt được cải lương, cái bắt đầu khởi sự của cải lương là những vở kịch nói mang hơi hướng của những câu hát bội và sân khấu của hát bội miền Nam. Thế nhưng dần dần, từ những vở kịch đầu tiên mang bố cục từ những tích cổ, những câu chuyện xưa, cải lương đã có cho riêng mình một sân khấu đặc trưng với các phần mở màn, hạ màn và tiến triển theo hành động của kịch. Chính những điều này đã kích thích sự phát triển của sân khấu kịch cải lương từ những ngày đầu mới như tuồng, hát bội, kịch nói, ... thường được dựng lên từ đề tài quen thuộc như những câu chuyện cổ tích, những sự tích được lưu truyền trong dân gian thì cải lương lại mở ra một lớp đề tài với cốt truyện rộng hơn. Những đề tài trong sân khấu cải lương được dựng lên từ những câu chuyện đời sống quen thuộc của người dân Nam Bộ, thêm vào đó là những câu chuyện mang màu sắc xã tài để dựng lên một vở cải lương không hề khan hiếm cũng không hề kén ta có thể dùng bất cứ nội dung đề tài nào để dựng lên một câu chuyện cải lương với những câu hát da diết, thầm đẫm tình cảm trong đó. Chúng ta có thể thấy những vở cải lương rất nổi tiếng như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, ... Ngoài ra, những câu chuyện tạo nên vở cải lương cũng có thể là các truyện nổi tiếng ở nước ngoài. Tóm lại, cải lương có thể dung nạp bất kì nội dung nào để tạo nên một vở kịch cải lương đặc sắc nhưng không thể thiếu trong đó là cái chất riêng của người Nam Bộ, cái hồn riêng của nghệ thuật sân khấu truyền thống được thổi vào đó qua từng câu chữ, từng tiếng khấu cải lương cũng như các loại hình tuồng chèo, ... được coi là một loại hình sân khấu ca kịch. Dựa theo những khuôn nhạc đã có sẵn, từng vào từng vở diễn mà người sáng tác đã viết nên những lời bài hát phù hợp với từng câu chuyện diễn biến trong đó. Sân khấu cải lương quy tụ hầu như tất cả các loại hình dân ca của miền Nam Việt Nam. Nó sử dụng vốn ca từ phong phú của dân ca Nam Bộ, từ những câu hò, những điệu lý như lý con sáo, lý giao duyên, lý ngựa ô, ... đều được sử dụng và vận dụng trong cải lương hết sức sáng tạo và nhuần nhuyễn. Có lẽ vì thế, người ta yêu thích cải lương bởi sự ngẫu hứng, sự tinh tế, nồng nàn, da diết qua từng câu hát quen thuộc, từ những sân khấu được dàn dựng chi chỉ độc đáo trong cách bố cục hay lựa chọn đề tài, cải lương còn làm người ta ngạc nhiên khi có thể dung nạp và làm hòa hợp cả hai dàn nhạc cổ và tân. Nếu như với các loại hình dân ca khác, người ta chỉ có thể sử dụng các loại nhạc cụ cổ điển để tạo nên âm thanh cho vở diễn thì đến với cải lương, nó lại có thể hòa hợp được cả hai loại hình nhạc cụ đến nhạc trong các vở diễn cải lương, nó đóng một vai trò hết sức quan là công cụ giúp làm đẹp cho giọng hát của diễn viên, khiến cho diễn viên có thể dùng nó để tô điểm cho không chỉ giọng hát của mình mà còn thể hiện cả diễn biến tâm lý của nhân vật được thể hiện riêng trong dàn nhạc của cải lương như đã nói ở trên là sự hòa trộn tham gia của hai dàn không những không lấn át nhau, không kệch cỡm mà lại có sự giao thoa, bổ trợ lẫn nhau, tạo nên một bản phối hoàn hảo cho loại hình cải lương đó, dàn nhạc cổ điển giữ vai trò chủ đạo trong những vở diễn cải lương. Nó luôn luôn giữ linh hồn trong từng câu hát và bổ sung vào đó là những nhạc cụ hiện đại cũng rất đa dạng, đầy màu hình cải lương cũng có lối diễn khác so với các loại hình khác của dân ca Nam Bộ. Nếu như các điệu hò, điệu lý của Nam Bộ chỉ chuộng về giọng hát, không chuộng cử chỉ hành động thì cải lương lại khác. Nó không chỉ yêu cầu diễn viên phải có một giọng hát tốt, với các quãng sâu và rộng, nó còn yêu cầu diễn viên phải có được sự dẻo dai trong các cử động, cử chỉ. Nói chung, cải lương đã mở ra một lối mới trong dân ca miền Nam, với cách diễn như kịch nói nhưng lại sử dụng hình thức lời ca. Nghệ thuật cải lương hình thành từ lâu, nhưng trước kia, nó chỉ được dàn dựng để phục vụ khi có nhu cầu từ những quán hát hay từ những quan chức chính quyền. Ngày nay, cải lương đã trở thành một nét văn hóa truyền thống mà đi đến bất cứ đâu ở Nam Bộ, ta cũng có thể nghe thấy những câu hát cải lương vọng lên da diết thân thương. Với chiều dài và bề dài lịch sử, cải lương đã sớm trở thành biểu tượng văn hóa của Nam Bộ, Việt lương đã làm nên tên tuổi của mình trong lòng những khán giả yêu mến nó bởi không ít những vở diễn thành công. Trong số đó, không thể kể tên các vở cải lương nổi tiếng, để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng khán giả như vở Lan và Điệp, Tô Ánh Nguyệt Trần Hữu Trang, Kiều Nguyệt Nga Ngọc Cung, Đời cô Lựu Trần Hữu Trang, ... cùng với đó là các nghệ sĩ nổi tiếng đã thể hiện thành công cải lương trên màn ảnh như nghệ sĩ Kim Cương, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Thanh Sang, Ngọc Giàu, ... Chính những vở cải lương và những nghệ sĩ tâm huyết này đã mang khán giả không chỉ ở riêng Nam Bộ mà còn là khán giả cả nước cũng như nước ngoài đã trở nên gần gũi hơn, yêu mến hơn và quý trọng hơn loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống nửa đầu của thế kỉ trước, đã có những lúc sân khấu cải lương trở lên vị trí độc tôn, trên mọi loại hình ca nhạc nay, công chúng vẫn luôn yêu mến loại hình này tuy đã không còn được phổ biến rộng rãi như trước cải lương vẫn đang được các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là người dân Nam Bộ lưu truyền và gìn giữu qua bao năm tháng. Cùng với đó, những người nghệ sĩ tâm huyết với cải lương như Bạch Tuyết, Út Bạch Lan, ... vẫn tổ chức những đêm nhạc cải lương để phục vụ đông đảo người dân yêu mến loại hình này. Những nghệ sĩ trẻ cũng đang chung tay hành động, bảo vệ và phát triển cải lương. Họ đã đem cải lương ra cả hải ngoại để phục vụ cho bà con Việt Nam đang cư trú tại nước ngoài và tuyên truyền để phát huy hơn nữa nghệ thuật sân khấu truyền thống này của Việt với sự phát triển của sân khấu điện ảnh, của những gameshow truyền hình, cải lương ngày nay không còn có được vị thế huy hoàng như trước kia. Thế nhưng không vì thế, sự yêu mến đối với bộ môn này bị mất đi trong lòng những người yêu văn hóa. Cải lương cũng đã trải qua những thăng trầm, thử thách khắc nghiệt của lịch sử, nhưng nó vẫn đang ở lại cùng người dân Nam Bộ nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Và nó sẽ còn được giữ gìn, phát huy và trường tồn cùng dòng lịch sử của Việt Nam và xứng danh là nghệ thuật sân khấu truyền thống của Nam xem thêm các bài văn mẫu thuyết minh - Thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật- Thuyết minh về thể thơ lục bát- Thuyết minh về mũ bảo hiểm
9 cuốn sách hay về cải lương cho bạn người đọc nhiều thông tin bất ngờ và thú vị về bộ môn nghệ thuật đặc sắc của nước giả Viễn Châu – 120 bài Vọng cổ đặc sắcSoạn giả Viễn Châu – 120 bài Vọng cổ đặc sắc do tác giả TS. Huỳnh Công Tín biên soạn và chú giải, gồm 120 bài ca được sắp xếp hệ thống theo bốn thể loại gồm Vọng cổ lịch sử – Vọng cổ tâm lý xã hội – Tân cổ giao duyên – Vọng cổ hài. Bạn đọc sẽ có dịp ôn lại những tác phẩm quen thuộc như Ánh lửa Mê Linh; Võ Đông Sơ ; Bạch Thu Hà; Chút tình Dạ cổ hoài Lang; Lưu Bình, Dương Lễ; Tình Lan và Điệp; Tình anh bán chiếu; Bông Ô Môi; Xuân đất khách; Ai cho tôi tình yêu; Ai xuôi vạn lý; Em không buồn nữa chị ơi; Tình đẹp mùa chôm chôm; Trên đường lưu diễn; Tư Ếch đại chiến Văn Hường…Soạn giả Viễn Châu tên thật là Huỳnh Trí Bá, sinh ngày 21/10/1924 tại xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Xuất thân trong gia đình vọng tộc, thân phụ là Hương cả, là con thứ sáu trong gia đình, ông còn có tên là Bảy Bá theo thông lệ người miền được mệnh danh là vua của các vị vua cải lương, “là người tạo danh cho các nghệ sĩ”, bởi qua nhiều sáng tác của ông, nhiều nghệ sĩ khi thể hiện đã được cái ưa thích để đông đảo người xem chú ý hơn, ví dụ nhưNghệ sĩ Mỹ Châu với bài “Hòn vọng phu”, NSND Út trà Ôn với “Tình anh bán chiếu”, Bên cạnh đó, ông cũng sáng tác ra nhiều bài vọng cổ hài hước mà sau này được nhiều gương mặt nổi danh như nghệ sĩ Văn Hường, Hề SÔng được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 1988 và Nghệ sĩ nhân dân năm 2012 để tôn vinh những đóng góp và thành tựu nghệ thuật của Ký Nghệ Sĩ Kim Cương Sống Cho Người – Sống Cho MìnhVào giữa thập niên 1950, giới mộ điệu sân khấu kịch nghệ, cải lương miền Nam bùng nổ cái tên được giới Ký giả đề tặng “Kỳ Nữ” không ai khác chính là Nghệ Sĩ Kim Cương – Cô Đào Bi đa tài của nền “ẩm thực sân khấu” lúc bấy giờ và được đón nhận hết sức nồng Kim Cương là ai?“Tôi là ai? Không phải bây giờ là một Nghệ sĩ Nhân dân được nhiều người yêu mến, ở giai đoạn cuối đời không còn đứng trên sân khấu tôi mới tự hỏi mình như vậy, mà từ ngày còn thơ bé, vừa đủ trí khôn, tôi cũng đã nhiều lần tự hỏi.”Nghệ sĩ Kim CươngTưởng chừng là đơn giản, những phải đến khi trải qua quá nửa cuộc đời, có nhọc nhằn nghiệt ngã, có hạnh phúc nở hoa, Người “Kỳ Nữ Kim Cương” mới thật sự muốn viết lại cuốn hồi ký – chút chương sử của cuộc đời mình. Để người nghệ sĩ thay giới mộ điệu, tự nói về mình, bằng mảnh ghép chân thật sách trải dài cuộc đời người được mệnh danh là “kỳ nữ” và đã vinh dự được nhà nước công nhận là Nghệ sĩ nhân dân, bắt đầu từ những tháng ngày ấu thơ, 18 ngày tuổi đã lên sân khấu trong vai con của Quan Âm Thị Kính, cho đến những ngày an nhiên bên con cháu. Chuyện đời, chuyện nghề, chuyện tình yêu lần lượt được bà trải Theo Dòng ĐờiTrôi Theo Dòng Đời là tập Hồi ký về cuộc đời của NSND Bảy Nam – thân sinh NS Kim Cương – cây đại thụ của sân khấu cải lương Nam Bộ. Gói gọn trong hơn 200 trang sách là cả cuộc đời của người phụ nữ với nhiều cái “đầu tiên” nhất được xác lập kỷ lục nhưNgười phụ nữ đầu tiên làm trưởng đoàn Nam Hưng ở tuổi 19Nữ soạn giả đầu tiên của Sài Gòn với các vở Người đàn bà Việt Nam, Phấn hậu cung, Nỗi đau lòng mẹ…Nữ nghệ sĩ Sài Gòn đầu tiên được hãng phim Intermondia Pháp mời tham gia bộ phim Mort en định“Nghệ sĩ Bảy Nam thuộc vào lớp nghệ sĩ gạo cội của sân khấu, một cây đại thụ, một thứ cổ thụ quý. Tập hồi ký của nghệ sĩ là một giá trị vàng mười”GS. Hoàng Như Mai“Cuốn hồi ký Má đã ghi lại những ngày tháng gian truân của mình khi theo nghiệp hát, con đã đọc nhiều lần, vậy mà mỗi lần đọc lại con đều rơi nước mắt. Gần bảy mươi năm của cuộc đời Má đã dành trọn cho sân khấu, thăng trầm có, danh vọng có và hoạn nạn đắng cay cũng tràn đầy.”“Cuốn hồi ký của Má không hề có lời giải thích, Mà chỉ kể lại cho hậu thế nghe về con đường Má đã đi cùng “Đạo Hát” bằng giọng rất nhẹ nhàng, nhiều khi là bỡn cợt trên chính nỗi đau của mình.”NSND Kim CươngHát Bội, Đờn Ca Tài Tử Và Cải Lương Cuối Thế Kỷ 19 Đầu Thế Kỷ 20Năm 1889 lần đầu tiên hát bội diễn ở Pháp đã gây sự tò mò thích thú từ quần chúng đến giới nghệ thuật. Sự đặc thù cuốn hút của nghệ thuận này đã khiến nhạc sĩ – nhà dân tộc nhạc học, ông Julien Tiersot đã ghi lại các nhạc cụ và âm nhạc hát bội, nhạc sĩ Claude Debussy sau khi nghe tuồng hát bội thì âm nhạc sang tác sau này của ông có sự ảnh hưởng nhạc hát bội Việt người thường mặc định hát chèo là văn hoá đặc thù của người miền Bắc, hát bội, hát tài tử và cải lương là văn hoá của người dân Nam bộ. Thực ra nhạc tài tử có nguồn gốc từ nhạc Cung đình Huế, cải lương ra đời là sự kết tinh và sang tạo từ nhiều hình thái nghệ thuật như hát bội, đờn ca tài tử, ca ra bộ, kịch nói và cả âm nhạc Tây tình yêu nghệ thuật cổ truyền, nhà nghiên cứu Nguyễn Lê Tuyên – Giảng viên của trường Đại học Quốc gia Úc và Nguyễn Đức Hiệp đã kế thừa và tiếp cận các nguồn tài liệu đáng tin cậy để có có một “công trình nghiên cứu” nho nhỏ giúp chúng ta hiểu thêm về loại hình văn hoá dân tộc đặc sắc này.“Tuy mới hình thành được gần 100 năm nhưng cải lương đã có một chỗ đứng trong lãnh vực âm nhạc cổ truyền Việt Nam”.Bước Đường Cải Lương của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh bộc lộ dần hai chủ đề chính được nhiều người quan tâm bởi cách vào đề hấp dẫn, kết luận ngắn gọn, trình bày theo trình tự thời gian rõ ràng. Đó là đề cập đến thời điểm xuất hiện và nguồn gốc của cải lương. Với những thông tin quan trọng được tác giả nghiên cứu và minh họa rõ ràng, cuốn sách sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về cải lương và bài Dạ Cổ Hoài Lang mà nhiều người vẫn thuộc nằm cầu kỳ hoa mỹ trong việc sử dụng từ ngữ, không ồn ào đả kích, không mở ra những cuộc tranh luận gay gắt sôi nổi, tác giả chỉ nói những gì mình biết và mình tin là đúng, nói một cách nhẹ nhàng và thuyết phục, chính điều đó tạo nên sự hấp dẫn trong Bước đường của cải lương của Nguyễn Tuấn Khấu Cải Lương Nam BộTác giả là một người mê cải lương. Rất mê là đằng khác. Tập sách này là tình cảm của tác giả dành cho cải lương… nên đầy tâm giới thiệu về sự ra đời của sân khấu cải lương Nam Bộ, Những chặng đường của cải lương Nam Bộ; Sự xuất hiện của cải lương Miền Trung – Miền ký 50 Năm Mê Hát, Năm Mươi Năm Cải LươngHồi Ký 50 Năm Mê Hát, Năm Mươi Năm Cải Lương là cuốn sách được viết bằng tâm huyết của học giả Vương Hồng Sển với nửa thế kỷ say mê nghệ thuật cải lương Nam Bộ với tất cả tấm lòng và trái tim. Lúc trước Vương Hồng Sển là một công chức, nhưng sau ông về hưu sớm để chuyên tâm về văn nghệ. Hồi Ký 50 Năm Mê Hát của Vương Hồng Sển in lần thứ nhất vào năm sách này đặc biệt ở chỗ tác giả không nói nhiều về đời tư mà đề cập đến lịch sử cải lương Nam Bộ từ ngày sơ khai đến thời hoàng kim, cực thịnh qua cái nhìn, cách sống của một con người yêu môn nghệ thuật Câu Hỏi Về Gia Định Sài Gòn – Sân Khấu Cải Lương Ở Thành Phố Hồ Chí MinhBộ sách 100 Câu Hỏi Đáp Về Gia Định – Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh gồm ba mươi quyển. Có thể nói đây là một bộ Địa chí văn hóa Thành phố dạng sơ giản nhằm phổ cập kiến thức và cung cấp thông tin cho người đọc về truyền thống lịch sử – văn hóa và hiện trạng kinh tế – xã hội ở Thành phố Hồ Chí tổng thể ba mươi quyển, cuốn Sân Khấu Cải Lương Ở Thành Phố Hồ Chí Minh giới thiệu cho người đọc những vấn đề, sự kiện, nhân vật… nổi bật trong lịch sử phát triển của sân khấu cải lương ở thành phố mang tên Bác từ đầu thế kỷ 20 trở đi, ngoài ra cũng kết hợp giới thiệu tổng quan về hát bội – một bộ môn nghệ thuật nhiều năm qua đã thẩm thấu và tích hợp vào cải biệt, quyển sách còn hướng người đọc cùng suy nghĩ về xu thế thoái trào của cải lương hiện tại, sự thoái trào mà biện pháp “xã hội hóa” bằng con đường thoát ly chế độ bao cấp chuyển sang kinh doanh 20 năm qua không những không thể ngăn cản mà ngược lại còn đẩy nhanh quá trình đó…Câu Chuyện Cải Lương Thật Và ĐẹpCuốn sách ngắn này ghi lại những kỷ niệm và hồi ức về nghệ thuật Cải Lương, được thực hiện bởi hai nghiên cứu viên lịch sử truyền khẩu từ Hội đồng Anh là Hugo Frey và Suzanne Joinson qua 10 ngày làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai vào tháng 4/ phương pháp luận được sử dụng ở đây là dẫn dắt cho các lời kể cũng như khuyến khích chia sẻ các ký ức một cách cởi mở. Mỗi buổi phỏng vấn đều được quay phim và tường thuật. Rất nhiều phiên phỏng vấn kéo dài hơn 40 phút, được hỗ trợ bởi một phiên dịch viên, và có một phim tài liệu đi kèm.
thuyết trình về cải lương