Nam tuổi Tân mùi kết hôn với nữ tuổi Bính tý 1996 ( chồng hơn vợ 5 tuổi ) Hai tuổi này kết hôn thì gặp số Nhất phong phú, rất tốt. Mặc dù lúc đầu 2 vợ chồng phải chịu cảnh thành bại nhiều phen nhưng qua năm hạn sẽ ăn nên làm ra, tính tình 2 vợ chồng không hẳn đã
# CHỒNG TUỔI ĐINH SỬU VỢ TUỔI ĐINH SỬU THÌ NÊN SINH CON NĂM NÀO là từ khoá được nhiều bạn đọc search trên google trong tháng vừa rồi do đó hôm nay 2022-10-19 Thứ Năm, Tháng Mười 20 2022
Bạn đang đọc: Chồng lớn hơn vợ 13 tuổi. Chỉ bao gồm 2% thiếu phụ kết hôn với bầy ông trẻ rộng từ 6 - 9 tuổi cùng 1% có một nửa bạn đời trẻ rộng 10 tuổi hoặc các hơn. Mặc dù nhiên, bao gồm sự cách biệt tuổi tác lớn hơn ở phần nhiều Vn.theasianparent.com 10
Chồng phải lớn hơn mình từ 6 tuổi trở lên thì mới mong có được hạnh phúc dài lâu. Chào chị Minh Anh! Tôi đã đọc bài viết “Phải chọn chồng cực cẩn thận nếu không muốn cuộc sống gia đình trở thành ĐỊA NGỤC” của bạn. Bạn nói đúng nhưng chưa đưa ra được
6. Chồng tuổi Bính Dần vợ tuổi Ất Sửu. Vợ lớn hơn chồng 1 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly) 7. Chồng tuổi Bính Dần vợ tuổi Kỷ Mùi. Chồng lớn hơn vợ 7 tuổi ở đời với nhau phạm (Biệt Ly) Trai tuổi này kỵ cưới vợ năm 16, 22, 28, 34, 40, 46, 52 tuổi. Gái tuổi này
Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. Tử Vi Số Mệnh gửi lời chào đầu tiên đến bạn XEM TUỔI VỢ CHỒNG là một ứng dụng được Tử Vi Số Mệnh phát triển nhằm cung cấp thông tin cho những cặp vợ chồng xem tuổi có hợp nhau không?. Nếu chồng Mậu Thân 1968 vợ Bính Thìn 1976 mà hợp tuổi nhau thì sẽ đem lại cuộc hôn nhân hòa hợp, gia đình hạnh phúc gặp nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như đường con cái phát đạt thịnh hưng. Còn nếu chồng Mậu Thân 1968 vợ Bính Thìn 1976 khắc tuổi nhau thì hai bạn cũng biết mà có sự điều chỉnh để vợ chồng trở nên hòa hợp hơn. Hôm nay Tử Vi Số Mệnh xem tuổi vợ chồng chuyên sâu sẽ luận chồng 1968 vợ 1976 có hợp nhau không? Với nội dung mà các chuyên gia Tử Vi Số Mệnh cung cấp, quý vị sẽ biết được tuổi nam 1968 và nữ 1976 có hợp nhau không? Cũng như cách hóa giải xung khắc chồng sinh năm 1968 vợ sinh năm 1976, giúp tình cảm vợ chồng luôn bền chặt hơn ở hiện tại và tương lai. Lưu ý Để sử dụng công cụ xem tuổi chồng 1968 Mậu Thân lấy vợ 1976 Bính Thìn được chính xác thì quý bạn cần phải nhập chính xác năm sinh chồng 1968 vợ 1976 là năm âm lịch. 1 - Thông tin về tuổi chồng Mậu Thân 1968 và tuổi vợ Bính Thìn 1976 Tiêu chí Tuổi chồng Tuổi vợ Năm sinh Mậu Thân 1968 Bính Thìn 1976 Mệnh Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Sa Trung Thổ Đất pha cát Cung Khôn Ly Niên mệnh năm sinh Thổ Thổ 2 - Luận giải Luận giải chồng 1968 vợ 1976 có hợp nhau không? 1. Xét về Mệnh chồng 1968 Mậu Thân vợ 1976 Bính Thìn Mệnh chồng 1968 Thổ Mệnh vợ 1976 Thổ Mệnh vợ chồng Bình Hòa 1 Điểm Chồng Thổ vợ Thổ Lưỡng Thổ tương sinh, trước khó sau dễ, phát về hậu vận. 2. Xét về Thập nhị địa chi chồng 1968 Mậu Thân vợ 1976 Bính Thìn Địa chi chồng 1968 Thân Địa chi vợ 1976 Thìn Địa chi vợ chồng Tam Hợp 2 Điểm Vợ chồng gặp "TAM HỢP" thì sẽ có nhiều điểm tương đồng, thích hợp làm ăn, kết hôn với nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, họ rất hợp nhau về phong cách làm việc, suy nghĩ. 3. Xét về Thiên Can chồng 1968 Mậu Thân vợ 1976 Bính Thìn Thiên can chồng 1968 Mậu Thiên can vợ 1976 Bính Thiên can vợ chồng Tương Sinh 2 Điểm Chồng can "Mậu" lấy vợ tuổi Thìn thuộc cách trong núi có ngọc ẩn đường công danh vinh nhục không đều, nhưng tiền hung hậu kiết, hậu vận mới khai thông về tài lộc, con cháu. 4. Xét về Cung phi bát tự chồng 1968 Mậu Thân vợ 1976 Bính Thìn Cung phi chồng 1968 Khôn Cung phi vợ 1976 Ly Cung phi vợ chồng Lục Sát 0 Điểm Vợ chồng thuộc cung Lục Sát Hai người này tuy có số phu thê nhưng gia đình kém an yên do lục đục bất hòa, vợ chồng không thấu hiểu và thông cảm cho nhau. Tài vận gia đình cũng kém phần thịnh vượng, vì lẽ đó mà hai vợ chồng càng thêm phần khó khăn. Con cái sinh ra cũng nhiều chuyện lận đận, kém hạnh phúc. 5. Xét về Niên mệnh năm sinh của chồng 1968 vợ 1976 Niên mệnh chồng 1968 Thổ Niên mệnh vợ 1976 Hỏa Niên mệnh vợ chồng Tương Sinh 2 Điểm Chồng Thổ vợ Hỏa Thổ Hỏa đắc vị, quan vị dồi dào, con cháu đông đúc. 3. Kết luận về tuổi chồng Mậu Thân 1968 và tuổi vợ Bính Thìn 1976 TỔNG 7/10 ĐIỂM Vợ chồng bạn có 7/10 phần hợp nhau. Đây là số điểm KHÁ TỐT, nó thể hiện rằng tuổi của hai vợ chồng quý bạn hợp nhau. Đồng thời bổ trợ cho nhau để vượt qua mọi khó khăn, trắc trở và hướng tới gia đình ấm êm, hạnh phúc, công danh phát đạt. Một số luận giải từ chuyên gia Tử Vi Số Mệnh về vợ chồng Vợ chồng là do duyên tiền định Vợ chồng là duyên trời định, nếu không có duyên thì sao có thể gặp được nhau, trở thành một phần trong cuộc sống của nhau. Hai người không quen biết gặp nhau trong biển người mênh mông lại có thể nên duyên vợ chồng."Trăm năm mới đặng chung thuyềnNgàn năm mới đặng nên duyên vợ chồng” Hạnh phúc là do người tạo và vun đắp Vợ chồng là do duyên số nhưng hạnh phúc là do người định, lúc đầu ta đến với nhau có thể là tình yêu nhưng để đi đường dài thì không hẳn là như vậy. Người xưa có câu "một ngày vợ chồng, nghìn năm ân nghĩa" bởi vợ chồng không chỉ là cái tình mà còn là cái nghĩa."Chồng giận thì vợ bớt lờiCơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê” Vợ chồng ăn ở với nhau, trông cậy vào nhau lúc ốm đau hoạn nạn, lúc khỏe mạnh thảnh thơi thì chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của 2 từ vợ chồng. Dù sướng khổ, buồn vui hay gặp lúc nguy nan, hoạn nạn thì cũng phải yêu thương đùm bọc nhau, đó mới phải đạo vợ chồng. Đạo nào sâu cho bằng "duyên phận vợ chồng". Hạnh phúc hay không là do hai bạn quyết định, cần biết rằng quyết định lớn đến hạnh phúc vợ chồng là cách hành xử, lối sống của hai bạn và sự nhường nhịn, chịu đựng, tha thứ của mỗi người. Tử Vi Số Mệnh chúc 2 bạn có cuộc sống hôn nhân luôn tràn đầy yêu thương, tình yêu và hạnh phúc!
Mình đã tìm hiểu thêm qua 1 ѕố bài ᴠiết trên những trang mạng хã hội, ᴡeb trẻ thơ, ᴠà nhận được 1 ѕố câu truуện ѕau Các bạn có câu chuуện tựa như hãу comment ở dưới nhé, để tất cả chúng ta cùng đi хem thực tại хem thế nào nhé ! Câu chuуện 1 bạn A Mình cũng ko tin bói toán, nhưng mình cũng nghe nói nhiều ᴠề ᴠiệc nàу, trước khi mình chứng kiến người thân của mình gặp trường hợp tương tự. Cậu mình ѕinh năm 72, lấу ᴠợ ѕinh năm 78, có ᴠới nhau 2 người con trai хinh хắn. Bạn đang хem Vợ chồng cách nhau 6 tuổi Hai ᴠợ chồng ѕống rất niềm hạnh phúc, nhưng tháng 7/2012 trong đợt đi nghỉ cùng công tу, Cậu mình đã ra đi ᴠì chấn thương ѕọ não lúc đá bóng giao lưu cùng những đồng nghiệp. Mình thường nghe nói 2 ᴠợ chồng lấу nhau cách nhau 6 tuổi là không hợp, hoặc là ko có con hoặc là 1 trong 2 người ѕẽ chết trước. Nếu 3 tuổi thì đỡ hơn nhưng ᴠẫn kị nhau . Câu chuуện 2 bạn B Mình ᴠới ông хã cũng cách nhau 3 tuổi phạm cung ngũ quỷ, nhưng bất chấp tất cả để lấу nhau, hiện naу mình đã có 1 cô công chúa nhỏ 7 tuổi rất đáng уêu! Công ᴠiệc làm ăn cũng gọi là tạm ổn, cuộc ѕống không ai dám nói trước được điều gì cả, chỉ có thể nói rằng hợp tuổi cũng không bằng hợp tính, chỉ cần ᴠợ chồng уêu nhau thực ѕự thì ѕẽ có thể cùng nhau ᴠượt qua được mọi khó khăn trở ngại. Hơn nữa nếu có gì đó không maу mắn хảу ra thì đó chỉ là ѕự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi. Cứ lấу 1000 cặp hợp tuổi ᴠà 1000 cặp khắc tuổi để ѕo ѕánh thì tỉ lệ chuуện хấu хảу ra cũng ѕẽ tỉ lệ thuận thôi. Mọi người hãу cứ уêu ᴠà cứ tin ᴠào những điều tốt đẹp trong cuộc ѕống .Chỉ cần có tâm ᴠà đức thì ѕẽ được hưởng niềm hạnh phúc nhé ! Chúc tổng thể những bạn ѕẽ tìm được 1 nửa chính хác nhất của mình . Câu chuуện 3 bạn C Bạn mình 89 laу 83 bạn mình mấу rồi khi đi хem ông thâу nói 89 83 đại kị liên tục ko chịu trách nhiêm. Ko phải cư 83 lâу 89 la chết ma ` anh chông ѕinh ᴠào giơ ` ѕát thê. Sau khi bạn mình mất mẹ ban mình đi хem tử ᴠi mới biết cung Thê của anh đó trông rỗng tội nghiệp . Câu chuуện 4 bạn D Bản thân mình thì lúc a chia taу mình, mình rất tỉnh táo ᴠà ѕuу nghĩ nàу – Nếu ng kia уêu mình, thì 1000 lí do, a cũng ᴠượt qua để đến ᴠới nhau. Nếu a bỏ rơi mình thật, thì lí do tuổi tác chỉ là 1 trong 1000 lí do, lí do chính là a ko уêu mình. – ѕau đó mình đã nc ᴠới a, mình thuуết phục a 2 bé ѕanh đôi, cùng ngàу, giờ, tháng, năm đều như nhau cùng 1 mẹ, chỉ có thời gian khác nhau 5-10 p, mà ѕố mạng c. đời ko giống nhau rồi, có khi 1 bé ѕống, 1 bé chết. Vậу thì Thầу nào hoàn toàn có thể k định lá ѕố tử ᴠi nào đó ứng chính хác ᴠới ai đó đc ko ! ? Thưa, chắc như đinh là ko … thế rồi bọn mình cũng cưới đc nhau Câu chuуện 5 bạn E Mình ᴠà ông хã cũng là tuуệt mệnh nè Càn – Lу nhưng đến thời điểm nàу mình ᴠẫn hạnh phúc mình mới cưới 1 năm rưỡi thôi. Nhưng mình có ông cậu ᴠà ᴠợ ống ấу cũng tuуệt mệnh Càn – Lу, họ ѕống ᴠới nhau 20 năm, có 3 con, 2 gái 1 trai. Hiện giờ họ ᴠẫn hạnh phúc ᴠà khỏe mạnh. Xem thêm Toàn Cảnh Giao Thông Cầu Vĩnh Tuу Hà Nội, Cầu Vĩnh Tuу, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Vietnam Câu chuуện 6 bạn F Có nhà mình 79-83, thấу bảo hợp tuổi nhưng khắc mệnh. Sau 4 năm chung thân thì thấу mọi đg khác ở mức trung bình, haу khắc khẩu nhưng toại nguуện ᴠề đg con cháu. Mà ᴠới mình bâу giờ, con cháu đem lại niềm hạnh phúc nhiều nhất vì vậy cứ nhìn ᴠào con là thấу cuộc ѕống tươi đẹp rồi. Những mặt khác từ từ khắc phục dần, miễn ѕao ko ở mức quá tệ là ok . Câu chuуện 7 bạn G Tôi có anh bạn cùng tuổi tôi 1983 уêu ѕaу đắm một em 1989 từ ngàу em ý mới ᴠào ĐH. ngàу tháng trôi qua bạn tôi đi làm, em Kỷ Tỵ ra trường. Mọi ᴠiệc tưởng là êm đến lúc sẵn sàng chuẩn bị хin cưới. Gia đình bạn tôi chẳng biết đi хem bói ở đâu bảo không hề lấу được nhau ᴠì chú rể ѕẽ hу ѕinh tôi хem trên mạng cũng thấу tuуệt mệnh thật .Thế là hai người chia taу ai đi đường người ấу để bảo toàn tính mạng con người cho chàng trai. Vì bực tức nên cô dâu hụt đã đi lấу chồng ᴠà cũng lấу đúng người ѕinh năm 1983 Quý Hợi . Hai ᴠợ chồng cô gái đến giờ nàу ᴠẫn niềm hạnh phúc ᴠà ổn định công ᴠiệc Tôi được biết qua mẹ của bạn tôi , họ có 1 cu tý rất kháu khỉnh .Lại nói ᴠề phần bạn tôi. Sau khi hôn ước không thành cũng đâm ra lấу đại cho хong theo ý của gia định tôi nghĩ là thế . Lấу một cô bé cũng хinh хắn, cũng tốt nghiệp ĐH ᴠà cái quan trọng nhất đối ᴠới mái ấm gia đình ᴠà cả ᴠới tâm linh là em ý ѕinh năm 1988 . Tuổi 88 cực kỳ hợp ᴠới tuổi 83 tôi cũng хem qua trên mạng rồi. Nhưng cái gì đến ᴠẫn cứ đến chẳng lý giải được. Một hôm trời đẹp bạn tôi đưa chó ra đường chắc là cho nó đi ᴠệ ѕinh thì bị một thằng taхi khả năng là buồn ngủ ᴠì trực đêm phi thẳng ᴠào người. Bạn tôi giờ cũng хanh cỏ rồi mà chưa kịp để lại cho ông bà đứa cháu nào cả. Tôi gửi bài nàу mong ai đó quá tin ᴠào mê tín dị đoan haу xem xét kỹ một chút ít trước khi уêu ᴠà trước khi tù bổ tình уêu của mình . Câu chuуện 8 bạn H Chào những bạn trẻ ! Các bạn đưa ra mục nàу rất haу, Tôi không còn là tuổi уêu đương như những bạn nhưng rất chăm sóc đến ᴠấn đề hôn nhân gia đình của tuổi trẻ. Là người đã trải qua hon 10 năm làm Dự kiến ᴠề Tứ trụ, từ kinh nghiệm tay nghề trong thực tiễn ᴠà niềm tin của mình, tôi chứng minh và khẳng định rằng những thàу bói chỉ dựa ᴠào năm ѕinh của hai bạn mà phán rằng hôn nhân gia đình của những bạn là хấu haу tốt là rất ѕai lầm, Dù là “ Tuуệt mệnh ”, ” Thiên khắc địa ѕung ” chính là hai người hơn kém nhau 6 tuổi haу “ tuổi mèo ᴠà tuổi chuột ” … thì đều là ѕai. Đâу là ѕai lầm rất lớn từ lâu ᴠà ảnh hưởng tác động tai hại đến đời ѕống hôn nhân gia đình của những bạn trẻ .Chuуên mục Chuуên mục
Dĩ nhiên việc chồng hơn vợ 10 tuổi là bình thường. Nhưng mình muốn đào sâu hơn cái sự "bình thường" này. Mình muốn biết tâm lý của các bạn nữ về việc này như thế nào?- Liệu đó có phải là khoảng cách tuổi lý tưởng mà các bạn nữ muốn hướng đến không hay chỉ là 1 lựa chọn miễn cưỡng khi không còn sự lựa chọn nào khác? kiểu như là quá lứa lỡ thì hoặc vì vấn đề kinh tế chi phối chẳng hạn...- Chồng hơn 10 tuổi có bị xem là chồng già không?- Có phải thời còn teen 15-16 tuổi thì các bạn nữ thích người hơn 2-4 tuổi, nhưng khi lớn hơn thì các bạn muốn yêu và cưới người hơn 10 tuổi đúng không?-Giới thiệu qua về hoàn cảnh của mình và lý do tại sao mình lại hỏi như vậy Mình nam giới, 26 tuổi, cũng được nhiều bé kém 10 tuổi chủ động thích vì mình đẹp trai, trẻ hơn tuổi và cũng có sự nghiệp tốt trên diễn đàn này mình ẩn danh nên chia sẻ hơi thật tí. Điều đó khiến mình khá tự tin khi tiếp cận với những người thua 10 tuổi. Nhưng có những bé thua mình 10 tuổi tức là các bé ấy bây giờ vẫn còn teen, khi mình tiếp cận thì các bé lại tránh xa, vì đối với các bé ấy thì 10 tuổi là 1 khoảng cách lớn. Cũng có những bé lúc đầu tưởng mình chỉ hơn 2-4 tuổi nên chủ động tiếp cận, sau biết mình hơn 10 tuổi thì các bé giật mình bỏ chạy D D D . Điều này khiến mình phân vân không biết nên chọn vợ kém 2-4 tuổi theo đúng chuẩn truyền thống hay chọn vợ kém 10 tuổi? Dĩ nhiễn là mình cũng mong có vợ trẻ hơn tuổi rồi, nhưng mà cũng không muốn chuyện hôn nhân nó quá khác đời và lệch chuẩn của xã hội, cũng không muốn vợ mình phải chịu thiệt khi mang tiếng lấy chồng già. Mình mới 26, cũng chưa quá lứa lỡ thì gì cả, nếu muốn thì vẫn có thế yêu và cưới người kém 2-4 tuổi. Nhưng thực sự mình rất mong có vợ kém 10 tuổi, để mình có thêm thời gian tự do, và phát triển sự nghiệp trước khi kết hôn.... nhưng mà khoảng cách 10 tuổi cũng có vẻ có nhiều bất cập. Giả sử bây giờ mình đặt mục tiêu lấy vợ kém 10 tuổi, thì 5-10 năm nữa mới chốt chuyện hôn nhân, khi đó cũng hơi già rồi, muốn quay đầu cũng không được, vì khi đó những người kém mình 2-4 tuổi đã lấy chồng hết rồi. Mong các bạn tư vấn. Mình xin cảm ơn
Đời sốngTổ ấm Thứ bảy, 15/3/2014, 0919 GMT+7 “Lấy vợ hơn tuổi, khoái nhất gặp mấy ông bạn của vợ hơn mình đến 6-7 tuổi mà vẫn được chào là anh”, anh Linh nói vui về những lợi ích của việc lấy vợ hơn tuổi. Ảnh minh họa Kết hôn được 9 năm, vợ chồng anh Linh Hà Nội hiện có hai con trai kháu khỉnh. Ngày tổ chức hôn lễ, anh mới 26, còn chị đã 33. Mặc dù vợ hơn chồng đến 7 tuổi nhưng bố mẹ anh rất ủng hộ đám cưới này. Thời sinh viên, anh nổi tiếng lãng tử và nghịch ngợm, thường xuyên nghỉ học đi du lịch bụi hay tham gia các nhóm văn nghệ... Bạn bè hàng xóm đồng lứa với anh phần lớn nghiện hút nên bố mẹ rất mừng khi anh dẫn một cô gái chín chắn về ra mắt và đòi cưới. Bố mẹ anh không nhầm, nhờ có chị, anh chỉn chu hẳn, sống có trách nhiệm hơn nhưng bản tính lãng tử thì vẫn còn. Lương hàng tháng anh đưa phần lớn cho vợ, chỉ giữ lại phần nhỏ để nuôi dưỡng đam mê du lịch hay thỉnh thoảng nhậu với bạn bè. Chị để anh hoàn toàn tự do, không mấy khi kiểm soát chồng. Muốn đi đâu, anh chỉ cần báo cho vợ một câu là có thể đi qua đêm. Chị yên tâm vì biết chồng không có tính ham mê cờ bạc hay trăng hoa, chỉ đôi lần ham vui nhậu say đến mức không về được. Có những đợt công ty nhiều việc, anh mang ba lô quần áo đến tạm trú cả tuần mới về, yên tâm hoàn toàn vì ở nhà vợ vẫn chu toàn gia đình, con cái. “Vợ hơn tuổi nên không có kiểu đòi hỏi và hờn dỗi trẻ con. Vợ chồng mình gần như chưa bao giờ cãi nhau. Mình cũng có vài lần mắc lỗi nhưng vợ chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng nên rất phục vợ. Vì có hậu phương vững chắc ở nhà nên mình tha hồ cống hiến cho công việc. Tất nhiên lúc nào rảnh rỗi mình cũng giúp vợ chăm con hay làm việc nhà”, anh Linh chia sẻ về cuộc hôn nhân của mình. Là tín đồ của phim tình cảm Hàn Quốc với rất nhiều mô típ tình yêu "chị - em”, tuy nhiên khi được anh Thành theo đuổi, chị Ánh Phú Nhuận, TP HCM rất bực vì anh kém chị đến 4 tuổi. Anh Thành vốn là lớp trưởng trong lớp học mà chị đến làm giáo viên thực tập khi đang là sinh viên năm cuối. Theo thời gian, sự ân cần và người lớn của anh đã khiến chị xiêu lòng. Sau bốn năm ngỏ lời yêu, hai người mới dám công khai với gia đình và bạn bè vì sợ bị trêu chọc. Bố mẹ chị phản đối ra mặt vì sợ sau này con gái già sẽ bị anh bỏ, còn bố mẹ anh cũng phản đối vì sợ con trai bị gái già “bỏ bùa”. Tuy nhiên, hai người vẫn quyết tâm kết hôn và bố mẹ hai bên phải đồng ý. Tuần trước, vợ chồng chị vừa giao con cho ông bà trông để lên Đà Lạt kỷ niệm 15 năm ngày cưới. Chị kể, mặc dù kém tuổi nhưng tính cách anh còn già dặn hơn chị. Và có lẽ do lấy chồng nhỏ tuổi nên so với bạn bè cùng học, chị có vẻ trẻ trung hơn. "Ngoài tình yêu, hai vợ chồng luôn đề cao sự tôn trọng lẫn nhau. Mình không muốn lúc cãi nhau, ông xã bảo 'chị lớn tuổi hơn em mà chị lại xử sự thế', còn ông xã hình như cũng rất sợ bị mình chê là 'con nít vắt mũi chưa sạch'. Thời yêu nhau, mỗi lần cãi nhau là ngay lập tức đổi xưng hô sang chị - em", chị Ánh nhớ lại. Làm dâu nước Pháp đã được 5 năm với ông chồng kém 5 tuổi, chị Thúy Nga cho biết không có cảm giác chồng kém tuổi mình. "Đi bên cạnh ông xã, thậm chí mình luôn có cảm giác bé nhỏ hơn, do ông ấy cao 1,85 m, còn mình thì chỉ 1,58 m", chị chia sẻ. Trừ khi đi làm, còn đi đâu làm gì, vợ chồng chị cũng luôn bên nhau. Thậm chí, nếu một người đi công tác thì cũng luôn mang người kia đi cùng. Chị gặp nhiều bạn bè của chồng, không thấy ai trêu chọc "phi công trẻ - máy bay bà già" như ở Việt Nam. Bạn bè nếu biết chị hơn tuổi còn tỏ ra ngưỡng mộ tình yêu của hai vợ chồng. Trong giới nghệ sĩ Việt Nam cũng có một cặp vợ chồng rất hạnh phúc dù vợ hơn chồng 5 tuổi, đó là Bùi Công Duy và Trinh Hương. Bùi Công Duy từng chia sẻ với VnExpress, vợ là người bạn thân nhất của mình. Giáp mặt vợ hằng ngày, nhưng mỗi lần được mời đi diễn, đi nghỉ ở đâu, anh cũng nhất định mang vợ theo để có người trò chuyện, tâm tình. Theo giáo sư, tiến sĩ tâm lý Vũ Gia Hiền, thực ra vợ hơn chồng khoảng 5-6 tuổi là rất bình thường. Văn hóa và quan niệm xã hội của người Việt Nam khiến phần đông nam giới thích lấy vợ trẻ tuổi hơn, vì thế nhiều cặp yêu nhau mà gái lớn tuổi hơn trai thường cảm thấy e dè trước dư luận xã hội. Tuy nhiên, người đàn ông một khi đã quyết định lấy người phụ nữ nhiều tuổi hơn mình thì đã sẵn sàng vượt qua dư luận, nhưng phụ nữ vẫn thường mang nhiều cảm giác mặc cảm, tự ti. Về lý thuyết, đời sống dục tính của người đàn ông kéo dài hơn phụ nữ nên so với những cặp chồng già hơn vợ, những cặp "chị em" có thể gặp khó khăn hơn trong chuyện chăn gối. Nhưng trên thực tế, tâm sinh lý của mỗi người không hoàn toàn giống nhau. Và giá trị sống của mỗi người còn bao gồm rất nhiều yếu tố khác nữa như trách nhiệm, sự nghiệp, bạn bè... Thực tế vẫn có rất nhiều cặp vợ chồng chị em sống hạnh phúc đến lúc già. Thông thường, người chồng trong cuộc hôn nhân hạnh phúc này là người sống có lý tưởng như muốn cống hiến cho nghệ thuật, cho cộng đồng, xã hội, ít quan tâm đến chuyện cơm áo gạo tiền, những lo toan hàng ngày, còn người vợ thường là biết đối nhân xử thế. Kim Anh
Trên cơ sở điều tra, khảo sát về hôn nhân năm 2017 với người tại 7 tỉnh ở Việt Nam, nghiên cứu này chỉ rõ phần lớn người dân Việt Nam hài lòng về hôn nhân của mình cũng như về các mặt của hôn nhân ở mức độ cao, trong đó hài lòng hơn cả về tình cảm vợ chồng, ít hài lòng hơn cả về đời sống vật chất của vợ chồng. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ rõ các nhân tố ảnh hưởng tới sự hài lòng về hôn nhân, bao gồm các nhân tố nhân khẩu-xã hội, như giới tính, lứa tuổi, sự khác biệt giữa vợ và chồng về học vấn, thu nhập, khu vực sống và số lượng con cái. Từ khóa Hôn nhân, nhân tố ảnh hưởng, nhân khẩu-xã hội, sự hài lòng, Việt Nam. Phân loại ngành Xã hội học Abstract Based on the 2017 marriage survey conducted with 1,819 people in seven provinces in Vietnam, this study shows that the majority of Vietnamese people are satisfied with their marriage, as well as aspects of the marriage, to a high extent. Among the aspects, they are most satisfied with the emotions of theirs and the spouses, while being less satisfied with the material life. At the same time, the study also identified factors affecting the satisfaction towards the marriage, including the socio-demographic factors, such as gender, age, the differences between husband and wife in education and income, and area of residence and number of children. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Sự hài lòng về hôn nhân của người Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởngPhan Thị Mai Hương1, Nguyễn Hữu Minh2, Phạm Phương Thảo3, Đỗ Thị Lệ Hằng4Viện Tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt huongphanmai ngày 25 tháng 9 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 3 tháng 5 năm tắt Trên cơ sở điều tra, khảo sát về hôn nhân năm 2017 với người tại 7 tỉnh ở ViệtNam, nghiên cứu này chỉ rõ phần lớn người dân Việt Nam hài lòng về hôn nhân của mình cũngnhư về các mặt của hôn nhân ở mức độ cao, trong đó hài lòng hơn cả về tình cảm vợ chồng, ít hàilòng hơn cả về đời sống vật chất của vợ chồng. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ rõ các nhân tố ảnhhưởng tới sự hài lòng về hôn nhân, bao gồm các nhân tố nhân khẩu - xã hội, như giới tính, lứatuổi, sự khác biệt giữa vợ và chồng về học vấn, thu nhập, khu vực sống và số lượng con khóa Hôn nhân, nhân tố ảnh hưởng, nhân khẩu - xã hội, sự hài lòng, Việt loại ngành Xã hội họcAbstract Based on the 2017 marriage survey conducted with 1,819 people in seven provinces inVietnam, this study shows that the majority of Vietnamese people are satisfied with their marriage,as well as aspects of the marriage, to a high extent. Among the aspects, they are most satisfied withthe emotions of theirs and the spouses, while being less satisfied with the material life. At the sametime, the study also identified factors affecting the satisfaction towards the marriage, including thesocio-demographic factors, such as gender, age, the differences between husband and wife ineducation and income, and area of residence and number of Marriage, impacting factor, socio-demographic, satisfaction, classification Sociology1. Đặt vấn đềHài lòng hôn nhân là đánh giá chủ quan củamột người về chất lượng hôn nhân của mình[22, [28, Mộtsố yếu tố cơ bản tác động đến sự hài lòng hônnhân, như giới tính, lứa tuổi, khu vực sống,số lượng con cái hay giới tính con cái…Nhiều nghiên cứu trên thế giới, cả ở phươngĐông và phương Tây, đã chỉ ra rằng571,3,4 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020phụ nữ ít hài lòng về hôn nhân hơn so vớinam giới [10, [20, Theo Bulanda [13],khác biệt về giới trong sự hài lòng hôn nhânbị ảnh hưởng bởi việc làm, chăm sóc concái, chăm sóc gia đình và yếu tố sức cạnh đó, tuổi tác cũng có thể ảnhhưởng đến mối quan hệ ở các cuộc hônnhân dài hạn. Một số nghiên cứu cho thấybiến thiên của sự hài lòng hôn nhân theo độtuổi là không đồng nhất. Lee và Shehan[20] chỉ ra rằng sự hài lòng hôn nhân giảmđi theo tuổi tác trong khi Rhyne [27] lại chothấy sự biến đổi của nó theo đường cái có ảnh hưởng đến sự hài lònghôn nhân, tuy nhiên các nghiên cứu chỉ rarằng, có những khác biệt nhất định về mứcđộ ảnh hưởng của con cái ở các xã hộiphương Tây và phương Đông. Nhìn chung,ở phương Tây, giai đoạn chuyển sang vaitrò làm cha mẹ được cho rằng làm giảm sútchất lượng hôn nhân [13, [29, Bởi theo những người làm chamẹ, con cái làm hạn chế sự gần gũi giữa haivợ chồng và do đó ảnh hưởng đến sự hàilòng của họ, biểu hiện vợ chồng dành ítthời gian cho nhau, ít giao tiếp với nhau vàcó thể trải qua nhiều xung đột hơn khi họgánh vác vai trò làm cha khi đó, ở các nước phương Đông,ví dụ ở Nepal [10, việc có con làmột giá trị được coi trọng và là một phầnthiết yếu đối với hôn nhân. Do đó, việc cócon làm tăng sự hài lòng trong hôn thế, việc chăm sóc con cái ở Nepalkhông chỉ được đảm nhận bởi các cặp vợchồng mà còn bởi nhiều thành viên khácsống cùng trong gia đình hoặc sống gần vớigia đình. Điều đó góp phần giảm bớt ảnhhưởng của việc chăm sóc con cái đến haivợ nghiên cứu gần đây cho thấy sốlượng con cái có liên quan mật thiết đếnmức độ không hài lòng trong hôn nhân [29, [18, Theo Kohler,Behrman và Skytthe [19], tại Đan Mạch, sựra đời của đứa con đầu tiên là nguồn vui rấtquan trọng đối với phụ nữ ở độ tuổi từ 25-45 cũng như người chồng của họ. Tuynhiên, sự ra đời của những đứa con kế tiếpkhông còn tạo được ảnh hưởng như vậy nữavới phụ nữ. Dường như phụ nữ kỳ vọngrằng đứa con đầu tiên giúp họ chứng minhđược sự nữ tính của mình và đồng thời thắtchặt cuộc hôn nhân. Tuy nhiên, với nhữngđứa con sau, họ lại cảm thấy rất không hàilòng về cuộc sống hôn nhân, bởi họ làngười chăm sóc con cái chính trong nhà vàhọ phải trải nghiệm nhiều áp lực và căngthẳng hơn người chồng của mình [16].Ở một số nước mang tính cộng đồng cao,nhiều tác giả đã nhận thấy rằng số lượng concái và sự hài lòng hôn nhân có mối quan hệtương quan thuận chiều hầu hết các gia đìnhthường là gia đình lớn, và các thành viên giađình khác sẽ hỗ trợ người mẹ nuôi dạy concái [26], [15, nhiên, ở các nước phát triển, sựtham gia lao động của người phụ nữ bênngoài phạm vi gia đình, chi phí nuôi dạy vàcho con đi học tăng dần, sự phụ thuộc củacha mẹ già vào con cái giảm đi vì có hệthống an sinh xã hội. Điều này làm choviệc có nhiều con không phải là sự kỳ vọngcủa nhiều người [25, công trình nghiên cứu cũng chỉ raảnh hưởng của giới tính con cái đến mức độhài lòng trong hôn nhân của cha mẹ, tuynhiên các phát hiện không thống nhất vớinhau. Kết quả nghiên cứu tại Mỹ [21] chobiết chồng và vợ có con trai cảm thấy thỏamãn trong hôn nhân cao hơn so với nhữngcặp vợ chồng chỉ có con gái. Andersson vàWoldemicael [12] chỉ ra rằng ở Thụy Điển,cha mẹ có cả con trai và con gái thường ítcó xu hướng ly dị hơn những cặp cha mẹ có58 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngcon một bề. Trái ngược hẳn với điều này,Mizell và Steelman [24] lại phát hiện thấyrằng việc có con một bề tạo ảnh hưởng tíchcực tới sự hài lòng hôn nhân hơn so vớiviệc có cả con trai và con gái. Khi có concái ở cả hai giới, cha mẹ có thể bị chia rẽthành hai nhóm do chính giới tính của mìnhvà sự chia rẽ này làm giảm tương tác mangtính cặp đôi giữa hai kiện kinh tế có tác động không nhỏđến đời sống của các cặp vợ chồng và đếnchất lượng hôn nhân của họ. Nghiên cứucủa Amato cùng công sự [12] cho thấy,việc giảm những lo lắng về kinh tế sẽ làmgia tăng sự hài lòng hôn nhân, đồng thờilàm giảm xung đột trong hôn vậy, sự hài lòng về hôn nhân có thểbiểu hiện khác nhau ở các xã hội, đồng thờivai trò của các yếu tố nhân khẩu - xã hộiđối với sự hài lòng hôn nhân không đồngnhất, mà phụ thuộc vào bối cảnh khảo đến nay, chủ đề về sự hài lòng hônnhân gần như chưa được quan tâm nghiêncứu một cách hệ thống ở Việt Nam. Dựatrên kết quả cuộc khảo sát “Những đặcđiểm cơ bản của hôn nhân ở Việt Nam hiệnnay và các yếu tố ảnh hưởng” thuộcChương trình cấp Bộ “Nghiên cứu, đánhgiá tổng thể về gia đình thời kỳ công nghiệphóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhậpquốc tế”, với phỏng vấn bằng bảnghỏi, tại các địa phương thuộc 7 tỉnh/thànhphố ở Việt Nam5, bài viết này phân tích sựhài lòng về hôn nhân của người Việt Namvà các yếu tố ảnh Sự hài lòng về hôn nhân của người Việt Sự hài lòng về hôn nhân nói chung vàvề các mặt của đời sống hôn nhânBảng 1 cho thấy rõ mức độ hài lòng về hônnhân nói chung và với các mặt của đời sốnghôn nhân của người Việt 1 Sự hài lòng về hôn nhân của người Việt Nam [7] N=1819, điểm trung bình dựa trên thang điểm 10Trung bình Độ lệch chuẩnHài lòng chung về hôn nhân8,20 1,25Tình cảm8,37 1,34Sự đồng thuận/ hiểu biết8,25 1,37Đời sống tình dục8,08 1,50Đời sống vật chất7,58 1,60Thực hiện việc gia đình8,09 1,60Tính cách và ứng xử của vợ/ chồng8,21 1,45Điểm trung bình từ 7,58 trở lên trên thangđiểm 10 cho thấy rằng người dân rất hài lòngvới hôn nhân của mình, trên bình diện chung,cũng như ở từng khía cạnh cụ thể. Chỉ riêngnhững người rất hài lòng với hôn nhân điểm9 và 10 đã chiếm gần một nửasố người được hỏi 42,4%,. Trong khi đó,những người không hài lòng với hôn nhâncủa mình điểm 4 trở xuống chỉ chiếm 1%.Kết quả cho thấy, người Việt Nam hài lòngnhất về tình cảm vợ chồng và ít hài lònghơn với đời sống vật chất của gia Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020Việc thu thập dữ liệu bằng cách hỏi trựctiếp về những vấn đề liên quan đến đánh giá,nhất là về hôn nhân, nhiều người Việt Namcó thể e ngại đánh giá thấp sự hài lòng củamình với người lạ. Tâm lý “cái tốt trưng ra,cái xấu đậy lại” có thể ảnh hưởng đến câu trảlời của người dân về vấn đề này, khiến họđánh giá cao sự hài lòng của mình. Tuynhiên, trên một bình diện khác, kết quả nàykhá thống nhất với những nghiên cứu cùngchủ đề ở Việt Nam. Đó là mức độ hài lòngvới hôn nhân luôn được đánh giá ở mức cao[3, [5, 8].Đánh giá hài lòng về hôn nhân có thể làsự nhìn nhận chung của cá nhân về hônnhân ngay tại thời điểm khảo sát, nhưng đócũng có thể là đánh giá cả quá trình hônnhân trên tổng thể. Dù là đánh giá mangtính thời điểm hay quá trình thì nó cũngphản ánh sự gặp gỡ giữa cái họ có được từhôn nhân với những chuẩn mực riêng màhọ đặt ra cho hôn nhân. Thực tế đời sốnghôn nhân bao gồm đa dạng các khía cạnhkhác nhau, thậm chí rất khác biệt như vậtchất tiền bạc, thu nhập, chi tiêu, tài sản…,tinh thần tình cảm, văn hóa ứng xử…,thực thể tình dục, sự hấp dẫn thể xác, sứckhỏe…, người bạn đời tính cách, nănglực…. Câu hỏi đặt ra ở đây là quan hệgiữa sự hài lòng nói chung về hôn nhân vớicác khía cạnh khác nhau này như thế nào?So sánh điểm hài lòng chung về hônnhân điểm trung bình 8,2 với điểm trungbình cộng 6 mặt của đời sống hôn nhânđiểm trung bình 8,09 thì thấy chúngkhông hoàn toàn trùng khít mà có sự chênhlệch, nhưng không đáng kể. Tương quangiữa sự hài lòng chung về hôn nhân với hàilòng về từng mặt của đời sống hôn nhântrong nghiên cứu này là thuận và khá chặthệ số tương quan R nằm trong khoảng0,65-0,84 nghĩa là ở những cặp vợ chồngcó sự hài lòng hôn nhân nói chung mà caothì cũng hài lòng cao về từng mặt và ngượclại. Như thế, sự hài lòng chung phản ánh sựhài lòng của từng mặt trong đời sống sánh vai trò của từng mặt đối với sựhài lòng hôn nhân nói chung, phân tích hồiqui tuyến tính bội cho thấy rằng, 6 mặtđược khảo sát trong nghiên cứu này đều lànhững yếu tố dự báo mạnh cho hài lòngchung, chứng tỏ đó là những mặt rất quantrọng của đời sống hôn nhân, góp phần tạora hạnh phúc vợ chồng Bảng 2.Bảng 2 Dự báo của các mặt trong đời sống hôn nhân đến sự hài lòng hôn nhân [7]Các biến độc lậpBiến phụ thuộc Sự hài lòng chung về hôn nhânSự hài lòng về ß T PTình cảm vợ chồng 0,417 21,926 < cách và ứng xử của vợ/ chồng 0,194 10,135 < sống vật chất 0,145 10,489 < sống tình dục 0,108 7,136 < đồng thuận/ hiểu biết 0,099 5,304 < hiện việc gia đình 0,074 4,595 < số tương quan R2 điều chỉnh 0,802Hệ số F6,1806 1224,52960 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ HằngKết quả cho thấy khi những điều kiệnkhác là như nhau, thì đối với người ViệtNam, trong hôn nhân, dù rất hài lòng chỉmột mặt nào đó thì cũng có thể vừa đủ đểlàm vợ chồng cảm thấy hài lòng, chứ khôngnhất thiết mọi thứ đều phải hoàn lại, rất không hài lòng với chỉ mộtlĩnh vực nào đó, chất lượng hôn nhân cũngcó thể bị suy giảm. Kết quả cũng cho thấyrằng, trong số các mặt được khảo sát, sự hàilòng với tình cảm vợ chồng có ý nghĩamạnh nhất đối với sự hài lòng chung về hônnhân. Đây là lĩnh vực riêng tư và có thể coilà lĩnh vực quan trọng nhất làm nên chấtlượng của đời sống vợ chồng. Yếu tố quantrọng thứ 2 là hài lòng về tính cách và cáchứng xử của vợ/ chồng; xếp vị trí cuối cùnglà hài lòng về thực hiện việc nhà của Sự hài lòng về hôn nhân theo các đặcđiểm nhân khẩu - xã hộiCác nghiên cứu đã chỉ ra, sự hài lòng hônnhân của mỗi cá nhân có mối quan hệ vớiđặc điểm nhân khẩu của họ. Do mối tươngquan chặt chẽ giữa sự hài lòng chung với sựhài lòng các mặt cụ thể, ở đây tập trungphân tích mối quan hệ giữa sự hài lòngchung và các đặc điểm nhân khẩu - xã hộigồm giới tính, tuổi, học vấn, số con, giớitính con, hoạt động nghề chính trong 12tháng trước khảo sát, mức sống, và khu vựcsống.Kết quả cho thấy có sự khác biệt đáng kểgiữa nam điểm trung bình 8,43 và nữđiểm trung bình 8,09 về mức độ hài lònghôn nhân p<0,01. Đối với các nhóm tuổi,sự khác biệt thể hiện chủ yếu giữa nhómtuổi từ 60 tuổi trở lên điểm trung bình8,76 và nhóm 40-49 tuổi điểm trung bình8,29 so với các nhóm còn lại điểm trungbình 8,15. Như vậy, nhìn chung có sự tănglên mức độ hài lòng theo tuổi tác, tuynhiên, quan hệ này không tuyến tính. Kếtquả cũng chỉ ra không có sự khác biệt đángkể về mức độ hài lòng hôn nhân giữa cácnhóm có trình độ học vấn khác tích theo đặc điểm số con có thểnhận thấy mức độ hài lòng hôn nhân củanhóm có một con điểm trung bình 8,62cao hơn đáng kể so với các nhóm khác, đặcbiệt là hơn nhóm có từ ba con trở lên điểmtrung bình 8,09. Theo truyền thống ViệtNam, con cái là giá trị quan trọng của hạnhphúc hôn nhân, đông con nhiều cháu là mộttrong những mong muốn của nhiều gia đìnhtruyền thống [4, [6, Tuynhiên, kết quả này cho thấy, hiện nay, quanniệm này cũng đang dần thay đổi. Kết quảnày cũng thống nhất với Kết quả điều tragia đình Việt Nam năm 2006 [1], đa sốngười trả lời khảo sát, đặc biệt là nhóm vịthành niên, không đồng ý với việc gia đìnhcó nhiều con mặc dù, việc sinh con vẫn tiếptục là một chức năng quan trọng của giađình. Điều đó gợi ý rằng, sinh nhiều conkhông còn là chỉ báo quan trọng của sự hàilòng hôn cạnh yếu tố số con thì giới tính concũng có ý nghĩa quan trọng đối với ngườiViệt Nam. Gia đình Việt Nam truyền thốngcoi trọng con trai hơn con gái vì có liênquan đến sự nối dõi tông đường và nghĩa vụchăm sóc cũng như quyền lợi thừa kế củanhững đứa con sau này [2, Kếtquả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006[1] và Nghiên cứu vị thành niên và thanhniên Việt Nam năm 2009 [8, cũngcho thấy một bộ phận lớn dân cư và thanhniên vẫn còn mong muốn nhất thiết phải cócon trai. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này,61 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020giả định về mức độ hài lòng hôn nhân caohơn đối với gia đình có con trai so với giađình có con gái, không được xác nhận,thậm chí mức độ hài lòng cao nhất thuộc vềnhóm người chỉ có con gái điểm trungbình 8,50 Bảng 3.Bảng 3 Mức độ hài lòng về hôn nhân theo đặc điểm nhân khẩu - xã hội [7].Đặc điểm nhân khẩu - xã hội Điểm hài lòng Độ lệch Ntrung bình chuẩnChung8,25 2,471819Giới tính** Nam8,43 1,05873Nữ8,09 3,26946Nhóm tuổi* 29 trở xuống8,15 0,9815930-398,15 1,1850940-498,29 1,1848050-598,15 1,3347860 trở lên8,76 6,69192Học vấn hiện tại Tiểu học trở xuống8,09 1,35390Trung học cơ sở8,21 1,23658Trung học phổ thông8,50 4,51433Trung cấp-Cao đẳng-Đại học8,19 1,29337Số con* Chưa có con8,18 1,0172Một con8,62 4,96356Hai con8,23 1,25820Ba con trở lên8,07 1,27571Giới tính con Chưa có con8,18 1,0172Chỉ con trai8,26 1,23461Chỉ con gái8,50 4,91368Có cả trai và gái8,15 1,26918HoạtđộngchínhCao cấp-Trung cấp8,41 1,2422512 tháng trước Sơ cấp-nhân viên kỹ thuật8,21 1,25406khảo sát Không làm việc8,50 1,27163Lao động giản đơn8,19 3,121007Mức sống**Khá8,49 1,12282Trung bình8,27 2,761348Nghèo7,79 1,50189Khu vực Nông thôn8,16 1,231012Thành thị8,36 3,44807Ghi chú Mức ý nghĩa thống kê * p<0,05; ** p<0,01; *** p<0, tố việc làm tỏ ra không có ảnhhưởng đáng kể đến mức độ hài lòng, mặcdù nếu xét theo trình độ chuyên môn thìnhóm có trình độ cao cấp - trung cấp vẫn cómức độ hài lòng cao hơn nhóm sơ cấp -nhân viên kỹ thuật và nhóm lao động giảnđơn. Nhóm không làm việc có mức độ hàilòng cao nhất, tuy nhiên nhóm này khôngphân biệt rõ về mặt trình độ chuyên mônvới các nhóm khác, vì vậy không sử dụng62 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngđể so sánh. Không có gì ngạc nhiên khi cókhác biệt đáng kể về mức độ hài lòng hônnhân giữa nhóm có mức sống khá trở lênđiểm trung bình 8,49 với nhóm nghèođiểm trung bình 7,79, p<0,01. Ngườithành thị có mức hài lòng hôn nhân cao hơnnông Sự hài lòng về hôn nhân theo so sánhđặc điểm của vợ và chồngSự hài lòng với hôn nhân có thể bị ảnhhưởng bởi những khác biệt giữa vợ vàchồng. Nghiên cứu này kiểm chứng mốiliên hệ giữa sự hài lòng hôn nhân và khácbiệt về đặc điểm vợ chồng với giả địnhrằng, sự hài lòng hôn nhân sẽ cao hơn nếucác cặp vợ chồng có sự tương đồng nhau vềđặc điểm nhân khẩu - xã hội. Có 4 biến sốđộc lập được sử dụng là sự khác biệt vềtuổi, học vấn, thu nhập và tham gia côngviệc nội trợ Bảng 4.Bảng 4 Mức độ hài lòng về hôn nhân theo đặc điểm nhân khẩu - xã hội so sánh giữa vợ và chồng [7].Đặc điểm nhân khẩu - xã hội Điểm hài lòng Độ lệch Ntrung bình chuẩnChung 8,25 2,47 1819Sự khác biệt về Vợ hơn chồng 8,25 1,25 196tuổi Vợ bằng chồng 8,29 1,24 220Chồng hơn vợ 1-5 tuổi 8,24 3,11 1024Chồng hơn vợ 6 tuổi trở lên 8,27 1,18 373Khác biệt học Bằng nhau 8,29 3,05 1065vấn giữa vợ và Vợ hơn chồng 8,11 1,17 283chồng Chồng hơn vợ 8,27 1,22 449Khác biệt thu Vợ hơn chồng 7,93 1,41 310nhập giữa vợ và Chồng hơn vợ 8,26 1,16 980chồng* Ngang nhau 8,47 4,20 505Tham gia công Làm bằng nhau 8,80 6,28 215việc nội trợ** Chồng làm nhiều hơn 8,22 1,27 125Vợ làm nhiều hơn 8,18 1,24 1464Ghi chú Mức ý nghĩa thống kê * p<0,05; ** p<0,01; *** p<0, vào phân bố tuổi chênh giữa vợ và Đối với khác biệt về học vấn cũng tươngchồng mà độ chênh được chia thành các tự, mặc dù nhóm vợ học cao hơn chồng cónhóm cụ thể như sau chồng ít tuổi hơn vợ; sự hài lòng kém hơn so với nhóm vợ chồngchồng bằng tuổi vợ; chồng hơn vợ 1-5 tuổi học ngang nhau hay chồng học cao hơn vợ,và chồng hơn vợ từ 6 tuổi trở lên. Bảng 4 nhưng khác biệt này không có ý nghĩacho thấy không có khác biệt đáng kể về thống kê. Tuy nhiên, sự khác biệt về thumức độ hài lòng của các nhóm vợ chồng nhập có liên quan chặt chẽ với mức độ hàivới cách biệt tuổi tác khác về hôn nhân. Những người ở nhóm vợ63 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020chồng thu nhập ngang nhau có mức độ hàilòng cao nhất, tiếp đó đến nhóm chồng cóthu nhập cao hơn vợ và sự hài lòng thấpnhất rơi vào nhóm người vợ có thu nhậpcao hơn quan niệm truyền thống, công việcnội trợ gắn với phụ nữ, từ đó có thể xuấthiện định kiến giới về phân công công việcgia đình. Nhưng nghiên cứu này đã pháthiện ra rằng, sự bình đẳng về phân côngcông việc nội trợ gắn với hài lòng hônnhân, trong đó, gia đình nào vợ chồng chiasẻ nhiều hơn về công việc nội trợ thì mứcđộ hài lòng cao hơn đáng kể so với nhữnggia đình mà vợ hoặc chồng làm nhiều hơnkể cả trường hợp khi người chồng làmnhiều việc nội trợ hơn thì mức độ hài lòngkhông khác biệt đáng kể với trường hợpngười vợ làm nhiều hơn. Như vậy, ngàynay, sự bình đẳng giữa vợ chồng về làmviệc nhà, về lao động kiếm tiền đã được đềcao hơn, nhưng vẫn còn sự tự ti của namgiới khi thu nhập kém vợ và những ngườiđó ít hài lòng nhất với hôn Ảnh hưởng của các nhân tố đến sự hài lòng hôn nhânĐể nhận diện rõ vai trò của từng biến sốđến sự hài lòng hôn nhân, mô hình phântích đa biến số được thực hiện. Biến phụthuộc trong trường hợp này là khả năngngười trả lời có sự hài lòng về hôn nhânchung. Dựa vào phân bố điểm hài lòngchung về hôn nhân, có 2 nhóm được hìnhthành 0-8 điểm nhóm hài lòng thấp hơn;9-10 điểm nhóm hài lòng cao hơn, nhóm9-10 điểm được coi là nhóm rất hài mô hình hồi quy logistic, các biếnđộc lập sẽ là những yếu tố nhân khẩu - xãhội ở trên. Mô hình xem xét tác động củachúng đến sự rất hài lòng với hôn nhânBảng 5. Có 3 mô hình được phân tích làmô hình chung dành cho tất cả những ngườitrả lời; mô hình nam dành cho người trả lờilà nam giới; và mô hình nữ dành cho ngườitrả lời là nữ 5 Ảnh hưởng của các biến số nhân khẩu - xã hội đến sự hài lòng cao về hôn nhân [7].Chung Nam NữCác biến số nhân khẩu-xã hội Tỷ số chênh N Tỷ số N Tỷ số Nchênh chênhGiới tính Nam 1,54*** 841Nữ nhóm so sánh-ss 1 90629 trở xuống 0,5** 155 0,36*570,689830-390,734860,632130,82273Tuổi 40-490,83469 0,57*2291, 0,53*2421,1421760 trở lên nhóm ss 1 178 11001Khác biệtVợ hơn chồng0,971881,07910,8597Vợ bằng chồng1,132100,951031,25107tuổi Chồng hơn vợ 1-5 tuổi0,839840,754610,8852364 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ HằngChồng hơn vợ 6 tuổi+ 1 365 11861179nhóm ssTiểu học trở xuống 2,0** 3771,161352,98**242Học vấn Trung học cơ sở 2,0** 6351,573042,56**331Trung học phổ thông1,72**417 1,76*2361,60181hiện tại Trung cấp-Cao đẳng-Đại 1 318 11661152học nhóm ssKhác biệtBằng nhau0,9110321,145000,90532Vợ hơn chồng 0,68* 2770,861230,76154học vấn Chồng hơn vợ nhóm ss 1 438 12181220Chưa có con1,22700,97401,4030Số con Một con 2,18*** 3342,44**1851,75*149Hai con1,47**7911,183531,71**438Ba con trở lên nhóm ss 1 552 12631289Chưa có con0,82700,85400,8830Giới tính Chỉ con trai0,80442 0,62*2051,02237con Chỉ con gái0,853510,801860,88165Có cả trai và gái nhóm ss 1 884 14101474Hoạt độngCao cấp-Trung cấp 2,54*** 2222,41**1282,67*94Sơ cấp-nhân viên kỹ thuật1,153981,192221,10176chính Không làm việc 2,0** 1450,88342,46***111Người trảlời Lao động giản đơn nhóm 1 982 14571525ssKhá 2,69*** 2702,53**1602,63**110Mức sống Trung bình1,2712951,126151,34680Nghèo nhóm ss 1 182 1661116Khác biệtVợ hơn chồng 0,68* 299 0,59*1180,75181Chồng hơn vợ0,939560,824761,03480thu nhập Ngang nhau nhóm ss 1 492 12471245Tham gia Làm bằng nhau1,31205 1,65*1081,0597công việc Chồng làm nhiều hơn0,971200,94841,4036nội trợVợ làm nhiều hơn nhóm ss1142216491773Khu vực Nông thôn 1,28* 987 1,47*4901,05497Thành thị nhóm ss 1 760 13511409-2 Log likelihood 2249,53 1092,49 1120,64Nagelkerke R Square 0,10,110,1N1747841 906Ghi chú Mức ý nghĩa thống kê * p<0,05; ** p<0,01; *** p<0, Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020Trước hết là đối với mô hình 5 cho thấy, ảnh hưởng riêng của mộtsố biến nhân khẩu - xã hội đối với sự hàilòng hôn nhân có sự trùng hợp với kết quảphân tích hai biến, nhưng một số biến sốkhác, lại có sự khác biệt nhất định. Nhìnchung, nam có xác suất hài lòng với hônnhân cao hơn so với nữ. Sự hài lòng có xuhướng tăng lên theo độ tuổi, trong đó nhómtuổi từ 29 trở xuống có xác suất hài lòngcao thấp nhất, chỉ bằng một nửa so vớinhóm tuổi từ 60 trở lên. Chênh lệch tuổigiữa vợ và chồng không có tác động đángkể đến sự hài lòng cao với hôn về yếu tố học vấn, nhóm có học vấncao nhất có trình độ trung cấp, cao đẳng,đại học trở lên là nhóm có xác suất rất hàilòng hôn nhân thấp nhất so với tất cả cácnhóm có trình độ học vấn thấp hơn. Nhómhọc vấn từ trung học phổ thông trở xuốngcó khả năng rất hài lòng về hôn nhân caohơn gần gấp đôi so với nhóm học vấn thể yêu cầu cao hơn về đời sống hônnhân ở nhóm học vấn cao đã khiến cho họkém hài lòng hơn về thực tế hôn nhân củamình. Liên quan đến chênh lệch học vấn vợchồng, nhóm những người mà học vấn vợcao hơn chồng có xác suất rất hài lòng kémhơn đáng kể so với nhóm chồng có học vấncao hơn vợ khoảng 0,7 lần. Định kiến giớivới xu hướng phụ nữ mong muốn có ngườiđàn ông hơn mình và nam giới thích ngườiphụ nữ kém hơn khi lựa chọn hôn nhânphụ nữ trông lên, đàn ông nhìn xuống cóthể là lý do khiến cho những cặp vợ chồngmà vợ có học vấn cao hơn cảm thấy kémhài lòng về cuộc hôn nhân của 5 cũng cho thấy, so với nhữngngười có 3 con trở lên, nhóm những ngườicó 1 hoặc 2 con có xác suất rất hài lòng vềhôn nhân là lớn hơn đáng kể. Xác suất rấthài lòng của nhóm có một con gấp đôi sovới nhóm có ba con trở lên. Sự chuyển đổimạnh mẽ về kinh tế - xã hội ở Việt Nam cóthể lý giải một phần cho mối tương quannghịch chiều giữa số lượng con cái và sựhài lòng hôn nhân của cha mẹ. Như đã phântích ở trên, tâm lý “đông con nhiều cháu”không còn là mong ước chủ đạo của ngườidân Việt Nam. Thực tế, nuôi dạy con cáivới những yêu cầu mới ngày càng khó khănhơn so với trước đây đã khiến cho nhậnthức của người dân về số con thay đổi. Khiphụ nữ tham gia vào lực lượng lao động xãhội nhiều hơn, chi phí đầu tư cho việc nuôidạy con cái cao hơn và sự phụ thuộc củangười cao tuổi vào con cái ít đi thì vai tròcủa việc có nhiều con đối với sự hài lònghôn nhân sẽ giảm [1], [25, [6, tính của con không còn là vấn đềtác động đáng kể đến mức độ rất hài lòngvề hôn nhân. Cho dù chỉ có con trai hay gái,hay có đủ cả con trai, con gái thì sự khácbiệt về hài lòng hôn nhân là không đáng có thể là bằng chứng mạnh mẽ cho sựthay đổi về quan niệm phân biệt giá trị contrai và con gái trong gia đình Việt Namhiện nay. Bối cảnh hiện đại hoá có thể lýgiải cho việc con cái tuy vẫn có ý nghĩaquan trọng trong cuộc sống gia đình nhưngảnh hưởng không mạnh tới sự hài lòng vềhôn nhân của những người làm cha mẹ ởViệt Nam. Điều này khá đồng nhất với cácnghiên cứu về ảnh hưởng của con cái trongquan hệ hôn nhân trên thế động nghề nghiệp được đo lườngthông qua chỉ báo về trình độ chuyên môncó ảnh hưởng đáng kể đến sự hài lòng caođối với hôn nhân. Những người làm công66 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngviệc đòi hỏi trình độ cao cấp hay trung cấpcó xác suất rất hài lòng về hôn nhân caohơn khoảng 2,6 lần so với những người làmcông việc lao động giản sống tiếp tục được xác nhận là yếutố quan trọng trong cuộc sống hôn người có mức sống khá trở lên cóxác suất rất hài lòng về hôn nhân gấp gần 3lần so với những người thuộc nhóm chỉ báo khác liên quan đến đời sốngvật chất là sự khác biệt về thu nhập giữa vợvà chồng. Quan niệm truyền thống vốn coinam giới là trụ cột kinh tế gia đình, vì vậy,kỳ vọng của mọi người là thu nhập củangười chồng cao hơn người vợ. Có lẽ, đó làlý do khiến cho nhóm người mà vợ thunhập cao hơn chồng có xác suất rất hài lòngvề hôn nhân thấp hơn đáng kể so với nhómvợ chồng có thu nhập ngang nhau hoặcchồng có thu nhập cao hơn chỉ bằngkhoảng gần 0,7 lần. Kết quả này phản ánhmột phần sự bảo lưu định kiến giới truyềnthống về vai trò của người vợ và ngườichồng trong kinh tế gia đã chỉ ra ở một số nghiên cứu,trong nhiều năm qua đã có một số thay đổiđáng kể về bình đẳng giới trong đời sốnggia đình, tuy nhiên, khuôn mẫu giới trongcông việc nhà vẫn còn được bảo lưu mạnhmẽ [1], [6, Nghiên cứu hôn nhân2017 tiếp tục xác nhận khuôn mẫu đó. Tỷ lệcác gia đình có người vợ là người làm côngviệc nội trợ nhiều hơn người chồng là khácao. Tuy nhiên, xét chung thì sự thay đổikhuôn mẫu này theo hướng chia sẻ côngviệc nội trợ chưa tác động mạnh để làmtăng sự hài lòng hôn nhân cho người quả nghiên cứu cũng cho thấy, saukhi đã tính đến vai trò của các biến số khác,những người ở nông thôn có xác suất hàilòng hôn nhân cao hơn đáng kể so vớingười dân ở thành nam và nữ có cảm nhận hài lòng hônnhân khác nhau đáng kể và các yếu tố ảnhhưởng cũng có thể thể hiện khác nhau ởnhóm nam hay nhóm nữ chẳng hạn ở vaitrò các yếu tố thuộc về định kiến giới,nghiên cứu đã tiến hành phân tích các yếutố tác động riêng đối với sự hài lòng hônnhân của nam và nữ. Bảng 5 cũng cho thấy,về cơ bản, vai trò của các yếu tố tác độngmạnh đến sự hài lòng ở mỗi giới cũng phùhợp với mô hình chung. Tuy nhiên, có mộtsố khác biệt cho thấy rõ hơn đặc trưng với nam giới mô hình nam, sựkhác biệt về xác suất hài lòng cao về hônnhân giữa các độ tuổi trẻ so với độ tuổi 60trở lên thể hiện rõ hơn. Nhìn chung, so vớinhóm tuổi 60 trở lên, các nhóm ở độ tuổitrẻ hơn đều có xác suất hài lòng cao chỉbằng khoảng từ 1/3 đến 1/2. Về học vấn,chỉ có nhóm trung học phổ thông là có xácsuất hài lòng cao hơn đáng kể so với nhómcó học vấn trung cấp - cao đẳng - đại người có một con có xác suất rấthài lòng về hôn nhân cao hơn những ngườikhác. Về giới tính con cái, điều đặc biệt lànhóm chỉ có con trai lại có xác suất rất hàilòng thấp hơn đáng kể so với nhóm có cảcon trai và con gái. Nhìn chung, có nếp cótẻ vẫn là mong ước lớn của nam với nam giới thì sự khác biệt thunhập hay tham gia công việc nội trợ có tácđộng đến sự hài lòng hôn nhân mạnh hơnso với mô hình chung. Những người màtrong gia đình công việc nội trợ được chiasẻ ngang nhau giữa vợ và chồng thì xácsuất hài lòng hôn nhân cao là gấp 1,7 lần sovới những người mà một trong hai vợchồng phải làm việc nội trợ nhiều Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020Đối với phụ nữ mô hình nữ, khác vớinam giới, ảnh hưởng của yếu tố tuổi đến sựhài lòng hôn nhân là không đáng kể. Nhữngngười có học vấn thấp thì xác suất rất hàilòng hôn nhân cao hơn rõ rệt so với ngườicó học vấn cao. Trong trường hợp vợ có thunhập cao hơn chồng thì xác suất rất hài lònghôn nhân không thấp đáng kể so với trườnghợp vợ chồng thu nhập bằng nhau, cho dùkhả năng rất hài lòng cũng thấp hơn. Mộtđiểm nữa là sự tham gia công việc nội trợkhác nhau giữa vợ và chồng không có tácđộng đáng kể đến xác suất rất hài lòng hônnhân của người vợ. Nói cách khác, các biếnsố đo lường về định kiến giới cho thấy yếutố này ảnh hưởng đến nam giới nhiều hơnđến phụ nữ. Ngoài ra, khác biệt giữa nhómphụ nữ sống ở nông thôn và thành thịkhông thực sự đáng Kết luậnVới một lượng mẫu phân tích lớn, kết quảkhảo sát hôn nhân năm 2017 cho thấy, nhìnchung, người dân Việt Nam hài lòng về hônnhân của mình cũng như với các mặt cụ thểcủa đời sống hôn nhân với mức độ cao. Mốitương quan mạnh giữa sự hài lòng chung vàhài lòng ở từng khía cạnh cụ thể cho thấy, 6lĩnh vực được phân tích là những mặt rấtquan trọng trong đời sống hôn nhân. Kếtquả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tình cảmvợ chồng có ý nghĩa quan trọng nhất đốivới đời sống hôn nhân, tiếp đó là tính cáchvà ứng xử của vợ/ xét vai trò của các biến số nhânkhẩu - xã hội đối với sự hài lòng về hônnhân, kết quả phân tích cho thấy, nam hàilòng hôn nhân cao hơn nữ, điều này là phùhợp với hầu hết phát hiện của các nghiêncứu trước đây [10, [20, [17, Người cao tuổihài lòng về hôn nhân hơn người trẻ tuổi, lýdo cơ bản có thể là vì những người cao tuổivề cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu cuộcsống, trong khi những người trẻ tuổi hơn thìđang có nhiều mối quan tâm phải giảiquyết. Kết quả này khác với một số pháthiện đã có trước đây [20, [27, Những người có học vấn caohơn dường như có yêu cầu cao hơn về cuộcsống hôn nhân của mình, vì vậy sự hài lònghôn nhân của họ thấp hơn những người cóhọc vấn thấp. Số lượng con cái có ảnhhưởng đến sự hài lòng hôn nhân, tuy nhiên,theo xu hướng ngược với khuôn mẫu truyềnthống. Những người có một - hai con cómức độ hài lòng hôn nhân cao hơn nhữngngười chưa có con và những người có 3 contrở lên. Trong khi đó, giới tính con cáikhông có ảnh hưởng đáng kể đến sự hàilòng hôn nhân. Những kết quả này khác vớimột số phát hiện trước đây ở các này cho thấy tính đa dạng trong ảnhhưởng của yếu tố con cái đến sự hài lònghôn người có trình độ nghề nghiệpcao hơn thể hiện mức độ hài lòng cao hơnđối với hôn nhân của mình. Mức sống caocũng có ảnh hưởng đáng kể làm tăng sự hàilòng về hôn nhân như đã được chỉ ra ở mộtsố nghiên cứu khác [11]. Những người sốngở nông thôn có xác suất hài lòng cao hơnnhững người ở đô thị. Điều này có thể đượclý giải là do đòi hỏi cao hơn về cuộc sốnghôn nhân của những người dân đô số phát hiện quan trọng trong nghiêncứu này có liên quan đến việc so sánhđặc điểm vợ chồng, bởi lẽ trong hôn nhân,68 Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Minh, Phạm Phương Thảo, Đỗ Thị Lệ Hằngsự hòa hợp, tương tác giữa hai vợ chồng rấtcó ý nghĩa. Phân tích cho thấy, chênh lệchtuổi giữa vợ và chồng không thực sự có tácđộng quan trọng đến sự hài lòng hôn khi đó, sự khác biệt giữa vợ vàchồng về học vấn, thu nhập đều có ảnhhưởng đáng kể đến sự hài lòng hôn chung của các phát hiện này là,dường như định kiến giới truyền thống vềvai trò của vợ và chồng vẫn có sức sốngmạnh mẽ trong đời sống hôn nhân ở ViệtNam. Những người trong gia đình có vợhọc cao hơn chồng hay vợ có thu nhập caohơn chồng thì có sự hài lòng thấp hơn. Tuynhiên, một điểm sáng về thay đổi nhận thứcgiới đó là, giới tính con cái không ảnhhưởng đến sự hài lòng hôn nhân. Phát hiệnđáng quan tâm nữa là, định kiến giới vềtrách nhiệm trong việc lo kinh tế và thựchiện công việc nội trợ của gia đình ảnhhưởng đến sự hài lòng về hôn nhân củanam giới hơn là của phụ thích5Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,thành phố Cần Thơ, Yên Bái, Nam Định, ThừaThiên - Huế, Đắk liệu tham khảo[1] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cụcThống kê, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới,UNICEF 2008, Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, Hà Nội.[2] Hoàng Đốp 2004, “Giá trị con cái trong giađình”, Xu hướng gia đình ngày nay Một vàiđặc điểm từ nghiên cứu thực nghiệm tại HảiDương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.[3] Phan Thị Mai Hương 2014, “Cảm nhận hạnhphúc chủ quan của người nông dân”, Tạp chíTâm lý học, số 185.[4] Trần Đình Hượu 1991, “Về gia đình truyềnthống Việt Nam với ảnh hưởng nho giáo”,Những nghiên cứu xã hội học về gia đình ViệtNam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.[5] Đỗ Thiên Kính 2009, “Gia đình hạnh phúc ởnông thôn Việt Nam hiện nay”, Tạp chíNghiên cứu Gia đình và Giới, số 1.[6] Nguyễn Hữu Minh 2015, “Gia đình ViệtNam sau 30 năm đổi mới”, Tạp chí Khoa họcxã hội Việt Nam, số 11.[7] Nguyễn Hữu Minh 2018, Khảo sát thực tế trongđề tài “Những đặc điểm cơ bản của hôn nhân ở ViệtNam hiện nay và các yếu tố ảnh hưởng”.[8] Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Hồng 2011,“Thái độ của thanh thiếu niên Việt Nam về hônnhân và gia đình”, Tạp chí Nghiên cứu Giađình và Giới, số 4.[9] Hoàng Bá Thịnh 2012, “Sự hài lòng với hônnhân, gia đình”, Tạp chí Dân số và Phát triển,số 8 137.[10] Allendorf, K. and Ghimire, 2013,“Determinants of marital quality in an arrangedmarriage society”, Social Science Research, 42 1.[11] Amato, P. R., Booth, A., Johnson, D. R., Rogers,S. F., 2007, “Alone together how marriagein America is changing”, Harvard UniversityPress, the United State.[12] Andersson, G. and Woldemicael, G. 2001, “Sex composition of children as a determinant of marriage disruption and marriage formationEvidence from Swedish register data”, Journalof Population Research, 18 2.[13] Bradbury Thomas N., Frank D. Fincham,Steven R. H. Beach 2000, “Research on theNatureandDeterminantsofMaritalSatisfaction A Decade in Review”, Journal of Marriage and Family, 62 4.69 Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 - 2020[14] Bulanda, J. R. 2011, “Gender, Marital Power,and Marital Quality in Later Life”, Journal ofWomen & Aging, 23 1.[15] Dillon, and Beechler, M. P 2010,“Marital satisfaction and the impact of childrenin collectivist cultures A meta-analysis”,Journal of Evolutionary Psychology, 8 1.[16] Ghahremani, F., Doulabi, M. A., Eslami, M. &Shekarriz-Foumani, R. 2017, “CorrelationBetween Number and Gender Composition ofChildren and Marital Satisfaction in WomenPresenting to Health Centers in Tehran-Iran,2015”, Iranian Journal of Psychiatry andBehavioral Sciences, 11 2.[17] Halpern-Meekin, S., & Tach, L. 2013,“Discordance in couples’ reporting of courtshipstages Implications for measurement andmarital quality”, Social Science Research, 42.[18] Jose, O. & Alfons, V. 2007, “DoDemographics Affect Marital Satisfaction?”,Journal of Sex & Marital Therapy, 33 1.[19] Kohler, Behrman, & Skytthe, A.2005, “Partner + Children = Happiness? TheEffects of Partnerships and Fertility on Well-Being”, Population Development Review, 31 3.[20] Lee, G., & Shehan, C. L. 1989, “Retirementand marital satisfaction”, Journal of Geron-tology, 44 6.[21] Lundberg, S. 2005, “Sons, daughters, andparental behavior”, Oxford Review ofEconomic Policy, 21 3.[22] Li Tianyuan and Fung Helene H. 2011, “TheDynamic Goal Theory of Marital Satisfaction”,Review of General Psychology, Vol. 15, No. 3.[23] Lichter, D. L., & Carmalt, J. H. 2009, “Religionand marital quality among low-income couples”,Social Science Research, 38.[24] Mizell, C. A. and Steelman, L. C. 2000, “All MyChildren The Consequences of Sibling GroupCharacteristics on the Marital Happiness of YoungMothers”, Journal of Family Issues, 21 7.[25] Moshfeg, M. and Gharib, E. S. 2012, “Analysisof the relationship between the value of childrenand fertility among women in Tehran”, Journalof Women's Strategy Studies, 15 58.[26] Onyishi, Sorokowski, P., Sorokowska, A.,& Pipitone, R. N. 2012, “Children andmarital satisfaction in a non-Western samplehaving more children increases maritalsatisfaction among the Igbo people of Nigeria”,Evolution and Human Behavior, 33 6.[27] Rhyne, D. 1981, “Bases of maritalsatisfaction among men and women”, Journalof Marriage and Family, 43 4.[28] Roach, A., Frazier, L., & Bowden, S. 1981,“The marital satisfaction scale Developmentof a measure of intervention research”, Journalof Marriage and Family, 43.[29] Twenge, J. M., Campbell, W. K. and Foster, 2003, “Parenthood and maritalsatisfaction A meta-analytic review”, Journalof Marriage and Family, 70 ResearchGate has not been able to resolve any citations for this Marital satisfaction is defined as a mental state reflecting the pressures and benefits perceived by the couple in their life. Several factors seem to contribute to marital satisfaction and success including having children. Objectives The present study aimed at evaluating the effect of the number and gender composition of children having only sons, only daughters, and children of both genders on marital satisfaction in women of childbearing age in Tehran. Methods This descriptive correlational study was conducted on 213 married females aged 15 to 45 years presenting to health centers in Tehran, Iran, in 2015. The demographic questionnaire, the ENRICH marital satisfaction scale, and a researcher-made childbearing questionnaire were used for data collection. Data were analyzed using descriptive statistics mean and standard deviation and ANOVA in SPSS version 17. The level of statistical significance was set at P < Results The results of the present study revealed a significant correlation between the mean score of marital satisfaction and the number of children P = for instance, women's marital satisfaction reduced with an increase in the number of children. The results also revealed a greater marital satisfaction in women with children of the same gender than in those with children of both genders. Moreover, the mean score of marital satisfaction was significantly higher in women with only sons than in those with either only daughters or with children of both genders P = Conclusions Women's marital satisfaction decreased with an increase in the number of children. Children's gender affected marital satisfaction. Women with only sons had a greater marital satisfaction than those women with only daughters, or with children of both research has demonstrated that having more children decreases marital satisfaction among parents. However, the universality of these findings is limited since the vast majority of the studies have been conducted in Western countries. In the present study, 374 people from the Igbo ethnic group Nigeria were assessed for levels of marital satisfaction and the number of children. In contrast to almost all previous findings, we found a positive relationship between the number of children and marital satisfaction among parents. Number of children was the strongest predictor of marital satisfaction even when compared to other variables like wealth and education. Our results suggest that the negative relationship between the number of children and marital satisfaction is not culturally universal and probably only characterizes developed, individualistic Western countries. We discuss our findings from a sociocultural and evolutionary satisfaction is gaining increasing concern in modern society. The current review proposes the dynamic goal theory of marital satisfaction to integrate previous findings about marital satisfaction from a life span developmental perspective. The theory argues that people have multiple goals to achieve in their marriage. These marital goals can be classified into three categories personal growth goals, companionship goals, and instrumental goals. The priority of the three types of marital goals is under dynamic changes across adulthood. Generally speaking, young couples emphasize the personal growth goals, middle-aged couples prioritize the instrumental goals, and old couples focus on the companionship goals. Whether the prioritized marital goals are achieved in marriage determines marital satisfaction. Other factors influencing marital satisfaction can be linked with marital goals in two ways. Some factors, such as life transitions and cultural values, can affect the priority of different marital goals; while other factors, such as communication pattern, problem solving, and attribution, can facilitate the achievement of the prioritized marital goals. PsycINFO Database Record c 2012 APA, all rights reserved Nguyễn Hữu MinhTran Thi HongDựa trên số liệu Điều tra Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần thứ hai SAVY, 2009 và số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, bài viết phân tích thái độ và sự biến đổi thái độ của thanh thiếu niên Việt Nam về một số vấn đề hôn nhân và gia đình. Kết quả phân tích cho thấy tình trạng nam nữ chung sống không kết hôn được một bộ phận thanh thiếu niên chấp nhận và tỷ lệ chấp nhận có xu hướng tăng lên sau 3 năm. Nhóm thanh thiếu niên là nam giới, sinh sống ở thành thị, có sử dụng Internet có tỷ lệ chấp nhận hiện tượng xã hội này cao hơn nhóm nữ giới, nhóm sống ở nông thôn và nhóm không sử dụng Internet. Tỷ lệ chấp nhận việc "phụ nữ không chồng mà có con" cũng gia tăng đáng kể sau 3 năm. Một bộ phận thanh thiếu niên có xu hướng chấp nhận sống độc thân như là một lối sống. Và vẫn còn một số lượng đáng kể thanh thiếu niên coi trọng việc phải có con trai. Bài viết đã nêu lên một số gợi ý về chính sách nhằm định hướng thái độ tích cực của thanh thiếu niên về quan hệ hôn nhân và gia RhynePossible gender differences in bases of marital satisfaction were investigated through male-female variations in 1 overall marital quality; 2 satisfaction with love, interest, friendship, sexual gratification, time spent at home and with children, help at home, spouse's friends, and treatment by in-laws; and 3 correlations between general evaluations of marital quality and satisfaction with specific marital characteristics. It was found that marital quality of men and women differs in degree rather than in kind. Although men are more satisfied with their marriages than women, the same factors are important in their assessments. These aspects are more important to the overall marital quality for women, but their saliency varies by stages of the family life cycle. There are indications of differential assessment, with women more sexually fulfilled, while men are more satisfied with spouse's help, time with children, and friendship; results also suggest a greater focus by women on J RoachLarry P FrazierSharon R BowdenThis study reviews the development of the Marital Satisfaction Scale MSS. The MSS was designed to assess one's level of satisfaction toward his or her own marriage. Marital satisfaction was defined as an attitude of greater or lesser favorability toward one's own marital relationship. Measurement of the perception of one's marriage by means of an attitude scale was the focus of the effort. Design objectives for developing the measure were to generate a new set of items, to utilize a single-item style with an easy scoring system, to guard against contamination by marital conventionalization and social desirability, and to provide items which could reflect attitudinal change likely to occur as a result of marital intervention. Research results indicate that the instrument has very high internal consistency, sufficient test-retest reliability and validity, and a low degree of contamination with social desirability. Daniel T. LichterJulie H. CarmaltIn this paper, we examine the question of whether religion—affiliation, beliefs, and practice—provides a source of marital strength and stability in the lives of American couples. Unlike most previous studies, we focus on religion and marital quality among 433 low-income married couples with co-residential minor children, using recently collected survey data on both spouses sampled in the Marital and Relationship Survey MARS. Our working hypothesis is that religiosity is a positive force for marital quality among low-income couples, and that a practicing faith can buffer the negative effects of economic stress on marital quality. The results indicate that most low-income couples have unexpectedly high scores on the various dimensions of marital quality commitment, emotional support, etc.. Religious affiliation and personal religious beliefs are less important for marital quality than if couples share similar beliefs about God’s divine plans for them and their relationship, if they pray together, or if they attend religious services together. On the other hand, the stress-buffering hypothesis received little support in our analysis. At a minimum, the results clearly highlight the potential role of religion in the marital lives of low-income couples. The implication is that faith-based organizations including churches and synagogues may have a particularly strong role to play in nurturing the spiritual lives and enhancing the quality of the intimate marital relationships of their Marie DillonMichelle Provenzano BeechlerMany studies have established that the presence and number of children have a negative impact on marital satisfaction. Those that maintain an evolutionary perspective may find this result surprising. It is argued that a couple that has successfully reproduced together ought to have heightened satisfaction. The majority of studies confirming this negative impact children bring have been on samples of participants from individualist cultures such as the United States and Canada. This severely limits the generalizability of this finding. In order to determine the relevance of cultural type, collectivist and individualist, we conducted a meta-analysis that aggregated the findings of fifteen studies that contained samples from collectivist cultures. All studies used in this meta-analysis contained samples from outside the United States. The purpose of this presentation is to discuss the findings from our meta-analysis on the impact of children on marital satisfaction. The present meta-analysis found a small, negative relationship between children and marital satisfaction d = r = that is significantly lower than another meta-analysis conducted using samples from individualistic cultures. Maternal age and type of measure were significant moderators. It may be that collectivist cultures foster shared childcare within the extended family, and this arrangement buffers stressors that people from individualist cultures are more likely to Halpern-MeekinLaura TachThe symbolism of rituals creates a shared understanding of events among group members. In the context of romantic relationships, a shared understanding of relationship status transitions may be associated with greater commitment and higher quality relationships. We argue that couples with differing retrospective accounts of their premarital courtship may not have had clear discussions or rituals marking relationship turning points. We test the association between discordance in couples' reports of premarital courtship stages and marital quality using data from married couples in a national online survey n=1504. We find that couple discordance is common, particularly among former premarital cohabitors and for the less institutionalized relationship stages of dating and stayovers, and is associated with lower marital quality. Implications for relationship measurement and the meaning of couple discordance are discussed.
chồng hơn vợ 6 tuổi